Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn
nhớ về một câu hát cũ, “Anh ở đầu
sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm Cỏ Đông…” Lãng mạn sao,
những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và hạnh phúc thay những
kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa lúa
chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các rặng
cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.
Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng
hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi
Anbert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi
tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục
của ta.”
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt
kiều yêu nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này
tham gia vào phong trào chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đã từng
là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu
chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy
chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản
kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân
chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một thời
gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản động”.
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có
chung mục đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng
vì lý do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp
diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một
thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng,
đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên
đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn
tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm
thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thểcùng nhìn
về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không
thể có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần
thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng đội, tất thảy đều
cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc
tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến
tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của
dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch
sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình
thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia
cuộc chiến ởphía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham
chiến ở phương Nam bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh
Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đã rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục
nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là
người Mỹ mà còn là chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong
cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai
toa tầu, là đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang
tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực
sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồnhất trong lịch sử của toàn
thể loài người. Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng lẫn
người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất
nước, trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa;
còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai phía
không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi. Nếu không đủ can đảm
nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ chỉ còn là đám thú rừng
bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sửvà không bao giờ có thể nhẩy
lên khỏi hố sâu.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm
tối với họ để trao đổi tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơmấy diễn
ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi đến Paris, tôi
đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ý đã
phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài
báo ấy, có đề tựa “Mười triệu
người chết trong cuộc chiến Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai
điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng,
tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con
số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế, con
số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính
quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các
nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận
người lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến
tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính
Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đã
khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng thống. Khi số tử vong
chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng
điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút,
dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông
hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu trên đài
phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người
nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
“Tới tận năm nay, gần
sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người. Nhờ đọc
báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như
người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi
chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái
chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”
Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt
chẽ với nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris và gửi báo cho
họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn cãi với
họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho
họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc
chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình
địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng
cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến trường, kết
quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập
suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay
lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có
những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định
rút quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn,
đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là
dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là
quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa:
Chỉ tiến công, không phòng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân
tộc, bao giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian
mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới
khắc nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời
cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của
ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ bay bổng, xuất
phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là
thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn
với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng
đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói
xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh
cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không
thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân
số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe
theo mấy thằng tướng ngu ấy được?
Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông
Phan Huy Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
- Nhờ Đường nói
với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông
tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại uý,
thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông
tướng thực sự thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng.
Bây giờ, nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng.
Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn
họ sẽ cho một báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào
mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong thâm tâm, tôi quyết định chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống
Mỹ như người đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì
đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt
xuất thông minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ thấy ngay
rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là một cộng đồng không bản
sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn đối với chính
quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da đen và người
Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói, chẳng có một gương
mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu
khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở thành
kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã
hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại
bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư trước họ, những người
lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp phục vụ tại
một số nhà máy làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp
ra chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng
Bộ Thuộc Địa và Quân Đội (ministre de la Colonie et de la Défense) Georges
Mandel dự tính tuyển 80.000 người Đông Dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh
niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ, 7.000
người miền Bắc, 2.000 người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối
xử như những con vật, bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn,
không điện và thiếu nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn
không đủ nửa khẩu phần. Mùa đông, những kẻ khốn
khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa, người nọ dẫm
vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại
về ăn. Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến
đầu thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard
Kouchner, vốn là một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal
trong cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại
giao cho chính phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì:
“Nước Pháp đã đối
xử với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính
thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên
Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu còn tầng trên,
thoáng mát hơn thì để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm tồi
tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm, cộng đồng người
Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập cư,
vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc
sống tinh thần của họ dường như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi
cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra. Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng
gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước
thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi
của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi.
Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến
lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không
bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần
thứ ba”.
Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không
thể biện minh, “Không một người Việt
Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có
một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết
một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu
tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹđiệp với các cuộc biểu tình
trước sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa
tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và
châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến
tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng
được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên
các diễn đàn chống chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước”
được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không
nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có
tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn
nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há
mỏ cất tiếng kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới
hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải
đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của
chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương
kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía
sau danh từ này có vô vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực,
hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức, hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng
phản lại nghĩa chính thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng
bị chia cách bởi những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới
bắc được cầu qua những con sông ấy.
Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái
tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một
thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu
với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ nạn Thuyền
nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được chào đón bằng
cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ rằng lần đi
châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào giữa mặt còn
đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh
công phu của cảnh sát Pháp. Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là
dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ.
Kể từ khi làn sóng “Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn
gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì biết, người ta chỉ nhắc
tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều
trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ đã tham gia vào phong
trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với những
kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên
nhẫn nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng
họ nắm được sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá khó
khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức
mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói
quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy
chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều
thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn
giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải
thích “thứ lý thuyết quái gở” này.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động
với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy
thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có
ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài
báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe
những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh
họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên
gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất
tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy
quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn
chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ
vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto…
(không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát
tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame
Mucho…
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng
choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống
của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh
sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới
khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này,
để hậu thế nhớrằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một
thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân
tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên
bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.
Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào
réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là
người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt
ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra
lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo
ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất
kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm
lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là
quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại,
Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều
kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên
hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh
ninh rằng mình ra đi là đểbảo vệ non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm
để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng
sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách
thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
Sơn Diệu Mai
(Dương Thu Hương)