Ý nghĩa sâu thẳm của tình yêu được minh chứng bởi xa cách,
vắng mặt hơn là xum họp? Khi con tàu chuyển bánh thì bến ga cũng nhạt nhòa, bởi đấy,
xa nhau, người ta thường quên nhau. Tàu đi rồi, bến ga có thể chơ vơ trong
sương bụi chiều hôm, nhưng đường tàu vẫn còn đó. Nếu xa nhau mà vẫn nối dài mến
thương, như đường tàu trung thành làm dòng máu luân hoán yêu thương giữa con
tàu cách xa và bến đỗ mong chờ, thì đấy mới là yêu thương đích thực.
Hạnh phúc tạm dung thì bắt buộc phải gần gũi, vì hạnh phúc
ấy không được thụ thai bởi tình yêu vượt núi đồi mà là hoa trái của khu vườn
gần gũi. Hạnh phúc ấy bị vây bọc bởi bến ga chật hẹp. Do đó, vắng mặt người
này, xa cách người kia, tình yêu biến dạng và phai màu. Ðấy là hạnh phúc của
con tàu khi cập bến đỗ chứ không phải yêu thương của đường tàu nối dài viên
miễn.
Nếu tình yêu được sinh bởi chọn lựa trong tự do, thì có thể
mịt mùng xa cách, có thể thăm thẳm chia xa mà vẫn rực rỡ trong không gian. Chọn
lựa là bao hàm từ chối. Chối từ là dứt bỏ. Dứt bỏ nào cũng thường có phần xót
xa. Chính vậy, tình yêu trong tự do là tình yêu có ray rứt giữa những giằng co
của lựa chọn, là tình yêu có đau khổ của một chối từ. Chính Thượng Ðế cũng đã
đớn đau trước giờ chọn lựa: "Lạy
Cha, nếu được, xin Cha cất chén đắng này cho con" (Mk. 14:36). Người
yêu cần tự do để xác định tình yêu của mình. Ðau khổ của chối từ, ray rứt của
chọn lựa minh chứng sự cao cả của tình yêu mình dành cho người yêu.
Tình yêu không tách rời khỏi thời gian, mà thời gian thì
luôn luôn đổi mới, bởi thế, tình yêu không thể chọn lựa một lần là xong, cưới
nhau một lần là đủ, mà tình yêu cần được rửa tội mỗi ngày, cưới nhau mỗi sáng.
Chính mặt trời còn lột xác, khai sinh sau mỗi đêm đen, cho nên hôn nhân là tái
xác nhận chọn lựa không ngừng.
Vì sự bất toàn của mình, con người không thể có một lựa chọn
hoàn hảo tuyệt đối. Hôn nhân là chọn một người tình và chối từ những người tình
khác. Nhưng bởi sự bất toàn, nên chọn lựa đó chẳng thể trọn vẹn, cho nên từ sâu
thẳm trong căn hầm tham lam, đôi lúc họ khổ tâm vì mất mát do những mối tình
khác mà họ phải chối từ. Họ bất toàn nên không thể cho nhau sự hoàn hảo. Từ
đấy, họ mơ màng một tình yêu nào đó ngoài tình yêu mà họ đã lựa chọn, cho nên
sự trung thành là thử thách lớn lao của tình yêu hôn nhân.
Yếu tính của trung thành là khả năng có thể vượt qua rừng
sâu, trèo qua núi đá, có thể song hành với thời gian, và thế, tình yêu phát
sinh từ sự trung thành sẽ bát ngát như vũ trụ và thênh thang như núi đồi.
Trong tình yêu, ràng buộc chính đáng nhất là hãy để nhau lớn
lên trong tự do. Ý nghĩa cao cả của tự do là thành thực với chính mình và ngay
thẳng với người tình. Hãy cho nhau tự do nhìn khuôn mặt thật của nhau. Ðừng tạo
nên giá trị của mình bằng cách để người tình ngưỡng mộ những điều mình không
có.
Vì tình yêu cũng là một thứ nhu cầu, bởi đó, người ta mới
nói đến chinh phục. Có khó thì mới phải chinh phục, nên khi chinh phục người ta
dùng mọi tài năng. Trong những tài năng tích cực, có một thứ tiêu cực là tạo ra
một hình ảnh đẹp, nhưng không đúng với con người thật của mình.
Vì tình yêu cũng là một thứ nhu cầu, bởi đó, người ta nói
đến tiếng sét ái tình. Ðã mê hoặc thì phải chiếm đoạt, nên chiếm đoạt trong
tình yêu bao giờ cũng pha trộn mù quáng. Cần phải chiếm đoạt, nên người tình
thường biện minh, rồi gán cho người yêu những đặc tính mà người yêu không có.
Tạo ra giá trị mình không có là lừa tha nhân. Gán cho tha
nhân giá trị họ không có là lừa mình. Cả hai thái độ đều nguy hiểm như nhau. Cả
hai thái độ đều là xây dựng giá trị trong thiếu tự do, lầm lẫn. Lầm lẫn không
biến đổi bụi than thành kim cương, đá cuội thành ngọc qúy. Sớm muộn gì rồi cũng
khám phá ra con người thực của nhau. Ngỡ người tình là kim cương, nhưng thực tế
là đá cuội. Thất vọng, ở đó, bắt đầu nẩy sinh. Trung thành, từ đấy, bắt đầu
lung lay. Tình yêu sống bởi sự thực, thiếu vắng sự thực tình yêu sẽ u buồn, ủ
dột. Thiếu sự thực, tình yêu không còn là cây leo hạnh phúc trong mùa xuân, mà
là bủng vàng xanh xao.
Hôn nhân là loài tằm chất phác và kiên nhẫn. Là loài dâu
thật thà biết hy sinh. Là tằm, là dâu, chúng chung khúc yêu thương, âm thầm,
gắn bó với nhau, góp nhặt hạnh phúc, chúng nhả tơ, dệt lụa óng ả cho đời.
Còn tình yêu của bầy ong với đám hoa cải, cho dù dẫu dễ
thương đến đâu chăng nữa, trên da mặt chúng vẫn là mơ màng quyến rũ tình yêu
bằng đỏm dáng, và thèm muốn tình yêu qua mật ngọt. Bởi đấy, chỉ là hạnh phúc
bấp bênh.
Luống cải kia, cánh ong đó đã nghèo nàn hóa tình yêu của
nhau bằng chiếm hữu. Chúng hạn chế hạnh phúc của nhau vì đánh giá tình yêu qua
duyên sắc bên ngoài mà thôi. Tình yêu của cả hai đã thai nghén trong thiếu tự
do vì sự hiểu biết bị lừa gạt, lòng thật thà bị lãng quên.
Như thế, khi mùa cưới đến, lúc tình yêu của chúng sáp lại.
Khi thèm muốn và chiếm đoạt đã theo dòng thời gian thiếu thật thà ấy mà trưởng
thành thì cũng là lúc buồn chán đã sẵn chờ đàng sau môi hôn.
Chúng nô lệ hóa nhau mà gọi là tự nguyện.
Chúng mang thương tích nhưng phải gọi là nỗi thương đau dịu
dàng.
Chúng trao nhau tình yêu thể nào thì tình yêu cũng dầm bập
chúng thể ấy. Bởi, chúng đã dệt tổ yêu thương bằng tơ lụa gấm vóc hơn là sự
hiểu biết. Chúng nhìn tình yêu qua nhan sắc hơn là tâm hồn.
Có người hỏi: Sao các đôi tình nhân lại nhắm mắt mỗi khi hôn
nhau?
Có phải, dẫu trong tha thiết thế nào, họ vẫn yêu một phần
bóng tối?
Có phải, dẫu trong hạnh phúc sóng sánh đến đâu, cũng vẫn có
một phần thiếu thật thà?
Nếu họ bất toàn, nếu họ chẳng thể trọn vẹn trao nhau thì sao
họ lại mơ ước "tôi hóa" tha nhân? "Tôi hóa" tha nhân là bắt
tha nhân nên giống như mình. Ðấy là tình yêu ích kỷ, là tàng tật hóa người yêu.
Người yêu là của mình, nên khi tàng tật hóa người yêu thì cũng là tàng tật hóa
chính hạnh phúc của tôi.
Kẻ muốn đồng hóa tha nhân trong tình yêu là những đôi tình
nhân yêu nhau hơi gặp hơi, thở gặp thở mà vẫn như mênh mông xa cách, vẫn như
khắc khoải kiếm tìm. Họ khắc khoải kiếm tìm vì chẳng bao giờ con người có thể
"tôi hóa" được nhau. Bắt người khác giống mình là hủy diệt tự do và
bản tính của người đó, càng bắt họ giống mình bao nhiêu thì sự hiện hữu của họ
càng mất đi bấy nhiêu. Tôi muôn đời vẫn là tôi. Tha nhân nghìn đời vẫn là tha
nhân.
Nếu tha nhân là tha nhân, tôi là tôi, thì làm sao có thể nên
một trong tình yêu như lời Kinh Thánh mong mỏi?
Kẻ nên một trong tình yêu là những đôi hôn nhân đem sự khác
biệt của nhau làm nên phong phú của một kết hợp. Khi nói nên một thì phải chấp
nhận là đã có hai. Làm sao có kết hợp nếu không có khác biệt. Như thế, khác
biệt đã là điều kiện cần thiết cho kết hợp. Trong ý nghĩa đó, khác biệt phải có
một giá trị tự nó. Kết hợp không biến hóa nguyên thể của các khác biệt mà là
một luân vũ nhịp nhàng. Ðó là một hoà âm trầm bổng của các đơn thể khác nhau
chứ không phải là đơn điệu. Ðó là kết hợp của âm nhạc, của vũ trụ, của tình
yêu. Kẻ lớn lên trong tình yêu hợp nhất là những đôi uyên ương nửa bên bờ đại
dương, nửa trên "cánh đồng nước mặn" Việt Nam mà tình yêu của họ vẫn
chập chùng qua biển cả, bàng bạc qua không gian.
Con tàu chỉ tới bến trên tuyến đường sắt song hành. Sự nên
một của tuyến đường là cùng sóng đôi chứ không phải là cùng chạm nhau. Mất sự
sóng đôi, con đường đánh mất bản tính của mình. Mất sự song hành thì tuyến
đường không còn là tuyến đường nữa, bởi, sự hợp nhất căn tính của nó hệ tại
cùng sóng đôi đi về một hướng.
Hôn nhân là nên một trong tình yêu. Nên một trong tình yêu
là nên một trong hòa đồng chứ không phải nên một bằng đồng hóa.
Kinh Thánh bảo: Phải
nên một! Ôi! đâu là ý muốn thâm sâu của Thượng Ðế?
Cẩn thận! Nếu không đấy chỉ là những lời lừa dối mà thôi.
Bởi, chính trên bàn thờ mà hai cây nến cũng có bao giờ dám cháy cạnh nhau đâu!
LM Nguyễn Tầm Thường