1. Tìm hiểu thuật ngữ Spiritus Sanctus
“Spiritus
Sanctus”[1]tiếng Việt dịch là “Đức Chúa Thánh Thần”[2]. “Thần”[3] (danh từ)
ở đây có thể hiểu vừa là “Đấng chủ tể vạn vật” vừa là “tinh thần”; và “Thánh”[4] (tĩnh
từ) nghĩa là “chúa tể” hay “tột bực tốt lành” bổ nghĩa cho từ “Thần”. Trong Tam
Vị Học (De Deo trino), chúng ta có bộ ba thuật ngữ: Thánh Phụ, Thánh Tử và
Thánh Thần.
Như vậy, việc dùng từ “Đức Chúa Thánh Thần” để xưng hô hoặc
nói về Ngôi Ba Thiên Chúa là thích hợp. Tuy nhiên, trong việc trình bày giáo lý
và phiên dịch Thánh Kinh, không phải lúc nào “Spiritus Sanctus” cũng dịch là
Đức Chúa Thánh Thần được, ví dụ: trong các câu Tv 50 (51),13 hay trong Is
63,10-11[5]. Cũng như chữ
“spiritus” không phải luôn luôn có nghĩa tốt, như các câu trong: Tp 9,23; 1Sm
16,14-15; Tb 6,8, nhất là trong: Mt 8,16; Ep 2,2 [6]. Vì việc mặc
khải về Đức Chúa Thánh Thần trong Thánh Kinh có tính tiệm tiến.
2. Về thuật từ linh
khí
Trong Cựu Ước bản Hipri, từ “ruah” (Hl: pneuma, Lt:
spiritus) được sử dụng 378 lần trong 348 câu, có thể chia ra 3 nhóm nghĩa quan
trọng tương đương nhau về số lượng là: (1) Gió, khí chuyển động (2) Hơi thở,
khí lực nơi con người, nguyên lý sự sống, cơ sở tri thức và cảm tính (3) Sinh
lực của Thiên Chúa, nhờ đó Chúa hành động và làm cho các vật hành động, cả về
thể chất cũng như tinh thần[7] . Trong
một văn bản, thường không thể xác định nghĩa chính xác của từ ngữ “ruah”. Người
ta có thể phân vân giữa “gió” và “hơi thở”, giữa “hơi thở” và “linh khí”, hoặc
giữa “linh khí” thụ tạo và “Linh Khí” của Thiên Chúa (Chúa Thánh Thần). Để dịch
từ “ruah” của tiếng Hipri, bản LXX chuyển “ruah” ra tiếng Hy Lạp đã dùng 24 từ
ngữ khác nhau, và như thế không cho phép người ta hiểu cặn kẽ ý nghĩa của hạn
từ đó trong các văn bản của Phúc Âm viết bằng tiếng Hipri (!)[8] . Trong
nhiều trường hợp liên quan đến nghĩa thứ 2 và 3, các bản dịch tiếng Việt thường
dịch khác nhau như đã nói trên.
Bản dịch Tân ước (1983) của cha An Sơn Vị sử dụng chữ “linh
khí”.
2.1. Linh, có
những chữ Hán sau đây: 靈(灵) ,霛,
灳, 龗,
鈴 (铃),令, 伶,
玲, 聆,
零, 齡
(龄), 囹,
拎, 伶,
羚, 醽,
瓴, 彾,
鴒 (鸰),
舲, 泠,
翎, 蛉,
軡, 櫺,
酃, 霝,
笭, 棂,
詅, 軨,
苓. Liên quan đến linh khí,
là chữ 靈, chữ này có các nghĩa như:
(1) Mau lẹ, sắc sảo; (2) Có hiệu lực lạ thường; (3) Phần thiêng liêng của con
người; (4) Xác người chết; (5) Mức khôn của loài vật. (6) Thần: Bách linh (bách
thần), sơn linh (thần núi).
Theo từ điển Từ Hải (TQ)[9], “linh” có 10
nghĩa, tôi xin chỉ dịch 5 nghĩa có liên quan: (1) Thần. Sách Sở Từ, Cửu Ca,
Tương Phu Nhân: “Linh đến như mây”. Tào Trực trong bài Lạc Thần Phú viết: “Vì
vậy Lạc Linh cũng cảm thấy, bàng hoàng cũng như không”; (2) Thiện, tốt đẹp. Bài
thơ Định Chi Phương Trung của Dung Phong, có câu: “Linh vũ ký linh”, Trịnh
Huyền chú giải: “Linh nghĩa là thiện”; (3) Linh hồn. Ôn Đình Quân trong bài thơ
Quá mộ Trần Lâm: “Từ khách hữu linh ưng thứcngã, bá tài vô chủ thuỷ lân quân”;
(4) Thuộc về người chết. Như: linh vị, linh cữu, di linh; (5) Người Sở xưa
gọi bà cốt ông đồng là linh, sách Sở Từ, Cửu Ca, Đông Hoàng Thái Nhất viết: “Đồng
cốt múa lươn làm trang phục rực rỡ, Mùi thơm toả bay làm sảnh dường nực nông”.
Theo từ điển Từ Hải (ĐL)[10],
“linh” có 14 nghĩa, tôi xin dịch 4 nghĩa: (1) Thần linh. Sở Từ, Cửu Ca, Vân Trung
Quân có câu: “Linh hoàng hoàng hề ký gián, phiêu viễn cử hề vân trung”. Chú
giải: Linh là thần mây. Thi Tử chú giải: “Thần trên trời là linh”; (2) Anh minh
của thần gọi là linh. Thi Đại Nhã trong Linh Đài Truyện có câu: “Duy nhân vạn
vật chi linh”. Truyện giải thích là thần, cũng giải thích là anh minh của thần;
(3) Phúc. Theo giải thích của cuốn Quảng Nhã Thích Ngôn; (4) Dụng cụ liên hệ
với thần, dùng ngọc để thờ phụng thần. Thuyết Văn, Sở Từ, Cửu Ca Đông Hoàng
Thái Nhất có câu: “Đồng cốt múa lượn làm trang phục rực rỡ"
2.2. Khí, có
những chữ Hán sau đây 氣, (気), 炁,
汽, 器,
噐, 棄
(弃), 亟.
Liên quan đến linh khí là chữ 氣, chữ này có
các nghĩa như sau: (1) Hơi thở, sức vô hình cần thiết cho sự sống còn và sinh
hóa muôn loài; (2) Tinh thần: Sĩ khí (tinh thần quân sĩ); (3) Cái gì
không có hình chất mà cùng cảm ứng với nhau được gọi là khí: khí vận, khí
tượng, khí vị. Theo Từ Hải (TQ), khí còn chỉ một loại vật chất rất nhỏ, là
nguồn gốc tạo thành vạn vật, Vương Sung thời Đông Hán nói: “Thiên địa hợp khí,
vạn vật tự sinh”. Trương Đới thời Bắc Tống cho rằng: Thái Hư không thể
không có khí, khí không thể không tụ tập thành vạn vật. (Chánh Mông, Thái Hòa
cho rằng “khí” là nguồn gốc vật chất của thế giới). Chu Hy thời Nam Tống lại
đưa ra thuyết: Tiên lý hậu khí, ông cho rằng: “Khi chưa có trời đất,
thì chỉ có lý, … có lý thì có khí, và sinh ra vạn vật” (Chu Tử Loại Ngữ). (4)
Một trong ba thể của vật chất; (5) Không khí, khí trời: Khí áp (sức ép của
không khi); (6) Thói, tính Quan khi (quan cách); (7) Tức giận: Khí
hoại liễu (tức lộn ruột lên); (8) Một chập, một mạch: Hồ thuyết nhất
khí (nói lăng nhăng một chập); (9) Mùi: Hương khí (mùi thơm);
(10) Ngửi.
2.3. Linh khí (靈氣): Theo các từ điển có nghĩa
như:
(1) Cái khí thiêng liêng (theo Đào Duy Anh);
(2) Năng lực nhiệm mầu, kỳ diệu, hơi thở thần linh (theo cha
E. Gouin: influence mysterieuse, magique, souffle spirituel);
(3) Một loại khí tinh vi sắc bén cực nhỏ. Quản Tử, Nội
Nghiệp: Linh khí tại tâm, đến cũng như đi, bé đến nỗi không có phần trong,
lớn đến nỗi không có phần ngoài (theo “Từ Hải”, Trung Quốc).
3. Về thuật từ thần
khí
Bản dịch Thánh Kinh của cha Nguyễn Thế Thuấn và của Nhóm
CGKPV sử dụng từ “thần khí”.
Chữ “thần” và chữ “khí” chúng tôi đã đề cập ở trên, “thần
khí” theo nhiều từ điển có nghĩa là: (1) Tinh thần, sinh khí; (2) Thần và khí
(theo Đông y).
Đặc biệt có các tự điển sau đây ghi thêm ý nghĩa “ôn dịch”
ngoài những nghĩa nêu trên: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Paulus Của (1895), Từ
Điển Việt Pháp của Génibrel (1898), Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Franẫais
của cha Eugène Gouin (1957), Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức (không ghi năm
xb), Giúp Đọc Nôm & Hán Việt của cha Antôn Trần Văn Kiệm (2004).
Từ thần khí đã và đang được hầu hết các tác giả
Công Giáo có uy tín trong và ngoài nước sử dụng khi nói về Đức Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, việc sử dụng từ này đã vấp phải những ý kiến phản đối vì cho rằng:
(1) “Thần khí” có nghĩa là: ôn dịch, lệ khí hoặc hơi độc gây bệnh cả vùng. (2)
Nhất là trong thực tế, có người vẫn còn đọc lời kinh “xin cứu chữa chúng con
cho khỏi thần khí, mất mùa, giặc giã...”[11].
Cũng có ý kiến biện hộ, giải thích rằng[12]:
(1) “Dưới thời Tự Đức, phải đổi mọi âmthời ra âm khác để khỏi phạm huý, vì
tên huý của vua là Nguyễn Phúc Thời; do đó thời khí (= ôn dịch)
phải đọc là thần khí. Và để bảo đảm không ai bị lo ra mà đọc sai và phạm
huý khi đọc bản văn viết về ôn dịch, thì các bản văn đó không viết chữ thìn 辰(đọc là thời) nữa, mà viết chữ thần 神, từ đó mà ra từ thần khí (mất
mùa, giặc giã…)”; (2) hiện nay không ai sử dụng từ thần khí theo
nghĩa xấu này nữa.
Vua Tự Đức tên húy là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, ngoài ra còn có
tên là Nguyễn Phúc Thì (阮福時). Bằng
chứng là: Khi chép Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc Sử Quán Triều
Nguyễn đã sửa tên của tướng Trần Thì (vị tướng của Đông Ngô sang thay Sĩ Nhiếp
năm 227) là Trần Thời, Ngô Thì Sĩ đổi thành Ngô Sĩ, Ngô Thì Nhậm đổi thành Ngô
Nhậm[13].
Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1896) của Paulus Của: Chữ thời 時cũng là chữ thì 時, vì “mắc quốc huý, mà đọc
trại”, và thời khí 時氣cũng đồng
nghĩa với thì khí, nghĩa là: vận khí theo mùa tiết; mùa tiết độc địa.
Ý kiến biện hộ trên đây có thể trình bày lại như sau:
(1) Chữ 時 có thể đọc là thì, thời
hay thìn
(2) Chữ 辰 có thể đọc là thì, thời, thìn hay thần.
(3) Chữ 神 đọc là thần.
Thì khí (時氣):
vì kỵ huý, nên đọc là thời khí hay thìn khí. Nhưng để khỏi
đọc nhầm là thì khí 時氣, nên viết
trại đi là 辰氣(từ này có thể đọc là thì
khí, thời khí, thìn khí hay thần khí) và để chắc chắn không thể đọc là thì khí
nữa, các bản văn thay chữ thần 辰bằng chữ
thần 神. Đó là lý do tại sao thì khí 時氣lại hóa ra thần khí 神氣.
Lập luận này hợp lý. Thú thật, cá nhân tôi chưa từng đọc bài
kinh có câu: “Xin cứu chữa chúng con cho khỏi thần khí, mất mùa, giặc
giã...”, nhưng được biết có một lời kinh trong Kinh Chầu Thánh Thể (Sách Nửa
giờ chầu Chúa, của Giáo phận Bùi Chu đang sử dụng) có câu: “Xin cho nước Việt
Nam khỏi bão bùng, hoả tai, ôn dịch, tà khí, mất mùa, giặc giã...”. Không
biết có phải kinh này đã được Đấng Bản Quyền sửa đổi lại từ bài kinh nói trước
hay không? Dù sao, những từ “bão bùng, hoả tai, ôn dịch, tà khí” vẫn hợp thời
hơn “thần khí” là từ có nghĩa “ôn dịch” nghĩa xưa rồi [theo Cha Kiệm, sđd.].
Quả thực ngày nay ít thấy ai sử dụng chữ “thần khí” theo nghĩa này nữa ngoài
bài kinh nêu trên.
4. Nhận định
Như vậy, chúng ta nên trả lại nghĩa “ôn dịch, hơi độc gây
bệnh cả vùng, dịch khí, mùa tiết độc địa, peste... “ cho từ thời khí (temps
épidémique) như có thể thấy trong Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam (2000) của Gs.
Nguyễn Lân: Thời khí = bệnh sinh ra do sự thay đổi thời tiết, ngày xưa
người ta cho bệnh dịch tả là bệnh thời khí. Hoặc trong Đại Từ Điển tiếng
Việt (1998) của Gs. Nguyễn Như Ý (chủ biên): Thời khí = điều kiện thời
tiết trong một khoảng thời gian nhất định, thường gây những tác động không tốt
đến con người.
Tuy nhiên, từ “thần khí” cũng có thể gợi liên tưởng đến một
số ý nghĩa không tốt, vì từ này còn có những ý nghĩa khác như: (1) Vẻ mặt, nét
mặt; (2) Khoái chí, thoả mãn; (3) Ra vẻ, cao ngạo, vênh vang (ta
đây)[14].
(4) Tinh thần dồi dào; (5) Nghênh ngang, ra vẻ[15].
Nếu là 神器(thần khí) lại có nghĩa là:
(cái) ngai của vua, chính quyền[16],
hay lưỡi gươm sắc bén. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta khi chọn dùng
một từ mới, nhất là những từ diễn tả khái niệm quan trọng trong đạo, cần hết
sức cẩn thận xem xét từ này đã có ai sử dụng chưa và có ý nghĩa gì khác nữa.
Trong tiếng Anh, “Holy Ghost” là danh xưng chung để chỉ Đức
Chúa Thánh Thần từ ban đầu cho đến đầu thế kỷ 20. Ý nghĩa nguyên thủy của chữ
“ghost” cũng tương tự như chữ “spirit” (tinh thần) và “soul” (linh hồn), nhưng
về sau, chữ “ghost” có thêm những nghĩa xấu như: “con ma”, “hồn ma”, “hồn của
người chết”... (tĩnh từ “ghostlish” có nghĩa “thuộc về ma cà rồng”, “kỳ cục ghê
tởm”). Cho nên, năm 1901,
Thánh Kinh ấn bản ASV (The American Standard Version of the Bible, dựa theo ấn
bản English Revised Version, 1885) đã sử dụng danh xưng “Holy Spirit”, thay cho
từ “Holy Ghost”. Năm 1970, ấn bản NAB (The New American Bible) chính thức đầu
tiên của Hội Thánh Công Giáo Hoa Kỳ cũng sử dụng từ này. Ngày nay, hầu như tất
cả các bản dịch tiếng Anh hiện đại đều theo đó. Ở Anh, các giáo viên giảng dạy
về tôn giáo luôn dạy phải tránh dùng “Holy Ghost” vì nó “gợi ý về một cái gì tầm
thường và tâm tình sợ hãi đối với Ngôi Ba Thiên Chúa”. Tuy nhiên, trong vài
sách kinh nguyện và trong các văn bản cũ, người ta vẫn còn gặp từ “Holy Ghost”.
Nhắc việc
này để nhớ rằng ngôn ngữ - một phương tiện để truyền đạt ý tưởng - có sự thay
đổi tuỳ theo hoàn cảnh và thời gian. Một chữ ngày xưa có nghĩa không xấu mà nay
lại có nghĩa xấu, thì người ta tránh không sử dụng nữa. Ngược lại một chữ ngày
xưa có nghĩa xấu mà nay không có nghĩa đó nữa thì chúng ta có nên sử dụng hay
không?
Về trường
hợp “thần khí”, ngày nay miền Bắc vẫn có một số giáo dân đọc bài kinh có câu:
“xin cứu chữa chúng con cho khỏi thần khí, mất mùa, giặc giã...”, nếu
chúng ta dùng từ thần khí để dịch chữ spiritus, đối với họ là
một xúc phạm. Tránh làm tổn thương tinh thần người khác, cũng là điều đòi hỏi
của bác ái Kitô Giáo. Trong khi đó, anh em Tin Lành dùng từ Thánh Linh thay vì
dùng từ Thánh Thần để chỉ Chúa Thánh Thần, thì từ linh khí thay cho
từ thần khí cũng rất tự nhiên.
Kết
Uỷ ban
Phụng tự của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong phiên họp ngày 11/08/2006 đã
quyết định chính thức không sử dụng từ “thần khí” nữa. Đây cũng là một lựa chọn
khó khăn, nhưng sáng suốt.
Chúng tôi
nghĩ rằng từ linh khí có thể thay cho từ “thần khí” để tránh liên
tưởng nhầm lẫn đến nghĩa xấu nói trên. Thuật từ linh khí không những
đúng với chữ spiritus, mà còn có một ý nghĩa triết lý Đông Phương rất sâu xa.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
[1] Tiếng La Tinh
do bởi từ Hipri là Ruah ha-qodesh: Ruah có nghĩa là: hơi thở, gió, tinh thần;
ha-qodesh do tĩnh từ qodesh có nghĩa là: thánh, thánh thiêng, tách biệt. Bản LXX là pneuma to agion (Tv
50,13; Is 63:10-11; Lc 11,13; Ep 1,13; 4,30 và1Th 4,8, ...).
[2] Tiếng Việt thêm từ “Đức” để tỏ lòng kính trọng, tôn xưng và từ
“Chúa” để diễn tả đức tin vào Ngài là Đấng Tối Cao.
[5] Tv 50 (51),13 trong bản Phổ thông: Ne proicias me a facie tua, et
spiritum sanctum tuum ne auferas a me. Bản CGKPV: Xin đừng nỡ đuổi con không
cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.
Is 63,10-11: Bản Phổ thông: Ipsi autem ad iracundiam
provocaverunt et afflixerunt spiritum sanctitatis eius; et conversus est eis in
inimicum et ipse debellavit eos. Et recordatus est dierum antiquorum, Moysi et
populi sui. Ubi est qui eduxit eos de mari cum pastore gregis sui? Ubi est qui
posuit in medio eius spiritum sanctitatis suae? Bản CGKPV: Nhưng chính họ đã
nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người, nên đối với họ, Người trở nên
kẻ thù, và đích thân giao chiến chống lại họ. Bấy giờ, dân Người nhớ lại thời
quá khứ, thời ông Môsê. Đâu rồi Đấng đã đưa vị mục tử đàn chiên của Người lên
từ biển? Đâu rồi Đấng đã đặt nơi ông thần khí thánh của Người?
[6] Mt 8,16: trong
bản Phổ thông dịch là: Vespere autem facto, obtulerunt ei multos daemonia
habentes; et eiciebat spiritus verbo et omnes male habentes curavit. Bản CGKPV:
Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một
lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau.
Ep 2,2: trong bản Phổ thông dịch là: in qui bus aliquando
ambulastis secundum saeculum mundi huius, secundum principem potestatis aeris,
spiritus, qui nunc operatur in filios diffidentiae. Bản CGKPV: Xưa kia anh em
đã sống trong đó, theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ
quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không
vâng phục.
[11] Xem bài viết
“Lời hát nhà thờ” của Trà Lũ Trần Trung Lương (2005) và “Một vài đề nghị về mấy
danh từ nhà đạo quen dùng” của LM. P. Đan Minh Trần Minh Công, ngày 02/07/2006.
[12] Xem bài viết
“Vấn đề dùng từ 'Thần khí của Thiên Chúa'“ của Nữ tu Nguyễn Thị Sang, CND, ngày
30/09/2005.
[13] Trong khi các
sách sử cổ hơn như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Lê Văn Hưu) hoặc sau này như Việt
Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim, 1971) đều ghi là Trần Thì, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì
Nhậm (陳時=陳辰;
吳時士=吳士;
吳時任=吳任).
Xem Khâm Định Việt Sử Thông Cương Mục (1856-1881), bản dịch của Viện Sử Học Hà
Nội, 1960, chú thích 1 trang 34 và chú thích 3 trang 951.
[15] Từ điển Hán
Việt, Trung Quốc, 1994, trang 598; Giúp đọc Nôm và Hán Việt, LM. Antôn Trần Văn
Kiệm, 2004, trang 493.