Phạm Kim Vinh
Người ta còn nhớ rằng điều kiện tiên quyết do ông Ngô Ðình
Diệm đặt ra cho Bảo Ðại là ông Diệm phải được „toàn quyền về dân sự và quân sự“
thì ông Diệm mới chịu trở về lãnh đạo nước Việt Nam. Những ngày chót của cuộc
chiến tranh Ðông Dương I. Bảo Ðại phải chịu nhận điều kiện ấy. Do đó, khi nhận
định về thành tích đối nội và đối ngoại của Chính Quyền Ngô Ðình Diệm, người ta
nên nhận định từ cái bối cảnh „toàn quyền dân sự và quân sự“ đó.
Theo sát sự chấp chánh của ông Diệm ngay từ đầu, một Giáo Sư
Chính Trị Học của Mỹ thuộc Viện Ðại Học Michigan là Wesley L. Fishel có nhận
xét rằng ông Diệm nhận cái quyền tưởng như rất rộng rãi đó để thực hiện một mục
tiêu coi như „không thể làm được“:
„Làm sao giữ vững được
con thuyền Quốc Gia lúc ấy đang nghiêng ngửa thảm hại trước những thắng lợi
quân sự to lớn và liên tiếp của Việt Minh.“
Là người biết khá rõ về nội tình của Việt Nam năm 1954
Fishel kết luận rằng cái toàn quyền dân sự và quân sự rộng lớn ấy thực ra "chỉ
có trên giấy tờ" vì ông Diệm không kiểm soát được các lực lượng chính yếu của
phía Quốc Gia lúc ấy, Cảnh Sát, Công Chức, Quân Ðội, Giáo Phái. Ðó là chưa kể
tới sự phá hoại không cần ngụy trang của thực dân Pháp, sự phá hoại càng tai
hại hơn nữa của Cộng sản... Là người ngoại quốc, Fishel nêu được nhận xét ấy
cũng đáng khen lắm rồi. Trên thực tế, ông Diệm đã lãnh đạo trong hoàn cảnh cực
kỳ khó khăn mà ngoài ông ra, không một nhân vật quốc gia nào lúc ấy dám có khí
phách nhận lãnh Lá Cờ Quốc Gia.
Là người làm chính trị tầm vóc quốc tế, cái nhìn của ông
Diệm đối với việc giải cứu quê hương Việt Nam năm 1954 là cái nhìn ở tầm mức
Quốc Gia. Chỉ có cái nhìn sâu sắc và bao quát như thế mới có thể giữ vững được
uy quyền Quốc Gia để từ đó, đạt tới các mục tiêu khác của sự đối nội và đối
ngoại. Tin tưởng rằng người dân Việt nào cũng yêu nước một cách sáng suốt và
nhất là tỉnh táo trước nguy cơ của cộng sản, ông đã kêu gọi lòng yêu nước và sự
hiểu biết của dân chúng Việt Nam để giúp ông hoàn thành sứ mạng cứu nước. Nhưng
lúc ấy, bức tranh của xã hội Việt Nam, nhất là xã hội miền Nam Việt Nam thật là
nản lòng.
Sự nản lòng đầu tiên đến từ chính người đã trao toàn quyền cho
ông Diệm, đó là „Quốc Trưởng“ Bảo Ðại. Ðược mẫu quốc Pháp đào tạo để trở thành
một con người chỉ biết hưởng thụ vật chất, Bảo Ðại đã „bán đứt“ vùng Sài
Gòn-Chợ Lớn cho tên tướng cướp Bảy Viễn để lấy một số tiền lớn sống xa hoa tại
Pháp. Vì sự mua bán này và tin rằng Bảo Ðại có khả năng gạt ông Diệm ra khỏi
chính trường Việt Nam bất cứ lúc nào, tên Bảy Viễn đã hành động y hệt một ông
vua của Sài Gòn-Chợ Lớn. Ðồng đảng của tên Bảy Viễn lại nắm luôn cả Ngành Cảnh
Sát Công An Nam Việt Nam lúc ông Diệm chấp chánh nữa.
Quân Ðội Quốc Gia thời ấy chưa được thử thách nhiều và lại
đặt dưới sự khống chế của Bộ Tư Lệnh Pháp tại Ðông Dương (muốn di chuyển một
đơn vị quân sự Việt Nam dầu nhỏ đến đâu cũng phải được sự cho phép của Bộ Tư
Lệnh Pháp). Như thế chưa đủ, nên người Pháp còn đặt tên Nguyễn Văn Hinh vào vai
trò Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Hinh là „dân Tây“
mang cấp bậc Trung Tá Không Quân của Pháp nên hết lòng khuyển mã với quan thầy
thực dân Pháp. Với tư cách ấy, xuất xứ ấy mà lại điều khiển Quân Ðội Quốc Gia
Việt Nam, tên Hinh rất xứng đáng với danh xưng „việt gian“. Cũng may là trong
thời kỳ phôi thai này, có một số Ðơn Vị Quân Ðội Quốc Gia đã may mắn có Ðơn Vị
Trưởng sáng suốt để „ly khai“ khỏi sự khống chế của thực dân/Hinh để trực tiếp
ủng hộ ông Diệm trong việc đối nội.
Nếu lúc ấy, các Giáo Phái tại miền Nam Việt Nam có được cái
nhìn tầm mức Quốc Gia như ông Diệm, nếu họ thấu triệt được nguy cơ cộng sản như
ông Diệm, thì các Giáo Phái ấy đã phải tự nguyện tìm đến hợp tác với Chính
Quyền Diệm rồi. Tiếc rằng thực dân Pháp đã làm băng hoại tinh thần yêu nước của
các Giáo Phái ấy và mang quyền lợi riêng tư làm mồi câu, khiến cho các Giáo
Phái ấy không nhìn thấy được con đường phải theo nữa. Võ trang cho các Giáo
Phái ở miền Nam là một thủ đoạn của người Pháp. Hậu quả của thủ đoạn ấy là khai
sanh tinh thần ‘’lãnh chúa’’ nơi những người Lãnh Ðạo Giáo Phái. Tinh thần ấy
đã uốn nắn lối suy tưởng của người Lãnh Ðạo Giáo Phái, làm cho họ chỉ còn nhìn
thấy quyền lợi nhỏ hẹp trong giới hạn tôn giáo của họ. Giáo Sư Fishel ghi rằng „các Giáo Phái võ trang ấy đã đòi giá rất
cao để hợp tác với ông Diệm“ (Marvin E. Gettleman, „Vietnam...“, trang
198).
Người viết sách này rất hãnh diện được tôn vinh ở đây sự
sáng suốt về chính trị và lòng yêu nước sâu xa của Tướng Trình Minh Thế, người
đã làm đẹp mặt cho Giáo Phái Cao Ðài. Tướng Thế đã đến với ông Ngô Ðình Diệm
rất sớm và cũng là một trong những người có công lớn thúc đẩy ông Diệm có thái
độ dứt khoát với Bảo Ðại. Tướng Thế là một Quân Nhân đa hiệu đa năng, có khả
năng hiếm có là vừa có dũng lại vừa có mưu lược. Ông ta đã đi trước người đương
thời đến cả chục năm về sáng kiến và phát minh, thí dụ chế ra cách làm bom nổ
chậm, lập đài phát thanh, lập đường dây điện thoại đặc biệt. Phải khâm phục
Tướng Thế về cái nhìn chiến lược của ông ta ngay trước khi thỏa hiệp Genéve
1954 ra đời. Lúc ấy, Tướng Thế đã chủ trương rằng, nếu Hà Nội không chịu chấm
dứt cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam thì cần chiếm ngay hai Tỉnh quan ải của Bắc
Việt, tiếp giáp với vĩ tuyến 17, để buộc Hà Nội phải chấm dứt mọi hình thức
khuynh đảo và xâm chiếm miền Nam Việt Nam.
Ðạo quân công chức quốc gia lúc ông Diệm về nước là đạo quân
phục vụ nhiều năm dưới sự lãnh đạo của thực dân Pháp. Ðó là một đạo quân ngơ
ngác, an phận và nói rõ hơn nữa, là khiếp nhược. Ðạo quân ấy chắc chắn không
giúp gì được cho ông Diệm trong những tuần lễ đầu tiên ông ta cầm quyền.
Ðó là chưa kể đến sự phá hoại vừa công khai, vừa kín đáo của
thực dân Pháp, chưa kể đến thái độ „chờ xem“ của ngay chính nước bạn Mỹ và lại
càng chưa nói đến sự phá hoại còn ghê gớm hơn nữa của cộng sản...Có lẽ điều an
ủi duy nhất cho ông Diệm trong lúc ấy là thái độ thụ động của quần chúng miền
Nam Việt Nam. Dường như họ trông chờ xem ông ta có thể làm gì được để xoay chuyển
tình thế quá đen tối lúc ấy và thế giới bên ngoài không ngạc nhiên nữa, khi có
rất nhiều quan sát viên chờ đợi Chính Quyền Diệm sụp đổ ngay sau năm cầm quyền
đầu tiên.
Thế mà ông Ngô Ðình Diệm đã đứng vững được năm đầu tiên và
còn đứng vững hơn nữa ít ra là ở năm năm kế tiếp.
Khí phách và đởm lược lãnh đạo của ông Diệm đã bị mang thử
thách dữ dội nhất vào ngày 19.3.1955, khi những người Lãnh Ðạo Cao Ðài, Hòa Hảo
và Bình Xuyên liên kết với nhau thành một mặt trận rồi gởi tối hậu thư cho ông
Diệm. Ðồng thời, phía thực dân Pháp tại Sài Gòn còn làm bộ nhân đức là khuyên
ông Diệm „đừng nên chiến tranh tại đường phố
Sài Gòn/Chợ Lớn để dẹp các Giáo Phái“. Ông Diệm đã hành động đúng vai trò
của một người lãnh đạo Quốc Gia là không thể duy trì tình trạng quái gở và hỗn
loạn là nhiều Quốc Gia trong một Quốc Gia. Chỉ cần ông nhu nhược và đầu hàng
cái tham vọng lãnh chúa và thiển cận của các Giáo Phái võ trang thời ấy là miền
Nam Việt Nam đã rơi vào tình trạng vô chính phủ, để rồi làm mồi cho Cộng sản
ngay sau đó rồi (Vietnam Crisis, trang 86).
Quốc Gia đầu tiên chấm điểm thành tích của Chính Quyền Diệm
là nước Mỹ và họ chấm điểm một cách rất thiết thực. Trước hào quang sáng chói
của ông Diệm sau cuộc di cư 1954-1955, với sự ủng hộ cụ thể và nồng nhiệt của
nhiều Quốc Gia dành cho ông ta, phía cộng sản rất lo sợ. Chúng vội vàng tìm đề
tài tuyên truyền để mong triệt hạ uy tín đang lên cao ấy của ông Diệm. Ðề tài
được chúng nhai lại nhiều lần và vẫn có kẻ ngu xuẩn trên thế giới tin theo, là
sự gán cho ông Diệm cái tội „làm tay sai cho đế quốc Mỹ“.
Tài liệu ngổn ngang trong sách báo ngoại ngữ đều chứng minh
điều ngược hẳn lại, nghĩa là cho tới ngày chết, ông Diệm không những đã không
rơi vào cái lỗi sợ sệt nước bạn Mỹ, mà còn làm cho nước bạn Mỹ nhiều lần căm
hờn vì tinh thần bất khuất và vì ý thức bảo vệ danh dự cũng như Chủ Quyền Quốc
Gia lúc nào cũng cực kỳ mạnh mẽ trong con người cũng như trong tác phong của
ông Diệm.
Rõ rệt nhất có lẽ là thời điểm mà nước Mỹ đã lựa để khởi đầu
sự viện trợ cho Chính Quyền Diệm. Mãi tới tháng 10.1954, sau hai tháng có mặt
tại Nam Việt Nam để tìm hiểu hy vọng tồn tại của Chính Quyền Diệm, Nghị Sĩ Mỹ
Mike Mansfield (người có ảnh hưởng rất sâu xa đối với việc hình thành chính
sách đối ngoại của nước Mỹ) mới phúc trình về Quốc Hội Mỹ rằng ông Diệm rất
xứng đáng được Mỹ viện trợ về kinh tế và quân sự. Mansfield kết luận trong phúc
trình rằng: „...Ông Diệm nổi tiếng khắp
Việt Nam là người có Tinh Thần Quốc Gia rất cao, là người không thể bị mua
chuộc. Ông ta cương quyết diệt trừ phá hoại và diệt âm mưu, mạnh mẽ chống tham
nhũng và bất công xã hội. Từ sự thất bại của tự do trước đó,
ông ta đã đưa vào một sinh khí mới“ (Stephen Pan & Daniel Lyons, „Vietnam
Crisis“ Twin Circle Publishing Co. , New York 1966, trang 86).
Ðầu tháng 1
năm 1956, tuần báo ôn hòa và trung lập của nước Anh là tờ The Economist viết: „Từ một tình thế dường như tuyệt vọng trước
đó 18 tháng, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã mang lại được một trật tự và một sự
yên ổn có thể làm cho Miến Ðiện, Nam Dương và ngay cả Mã Lai nữa, thèm muốn. Nhưng
công việc còn phải làm sẽ rất nhiều và gian nan”. (Vietnam Crisis, trang
80)
Tháng 6 năm
1956, tại diễn đàn Hội Những Người Mỹ Bạn Của Việt Nam, Nghị Sĩ John F. Kennedy
khuyến cáo nước Mỹ “hãy mau lẹ cung cấp
viện trợ quân sự và kinh tế nhiều hơn nữa cho Tổng Thống Diệm, vì Chính Phủ của
ông ta đã thực hiện những bước sinh tử đầu tiên để tiến tới dân chủ thực sự. Ở
nơi mà trước đây, thực dân và cộng sản giành ngôi bá chủ, đã có được một Nước
Cộng Hòa Tự Do và Ðộc Lập, được trên 40 Quốc Gia của Thế Giới Tự Do thừa nhận.”
(Hans Morgenthau, „America Stake in Vietnam“ New York 1956, trang 69)
Tên ký giả
thực dân và xấc láo của Mỹ là David Halberstam sau này hung hăng chống lại sự
trợ giúp của Mỹ cho Nam Việt Nam mà hồi ấy cũng phải trầm trồ ca tụng là „...Diệm đã hành động rất đúng và rất can
đảm trong những năm đầu tiên của Chính Phủ của ông ta.” (William Colby, “Honorable
Men, My Life In The CIA” Simon & Schuster, New York 1978, trang 158).
Trên đây chỉ là sự trích dẫn một vài lời trong nhiều lời ca
tụng nồng nhiệt đầy kính trọng mà nhiều Quốc Gia đã dành cho Chính Quyền Diệm
những năm đầu của Chính Quyền ấy. Lời lẽ trong những lời ca tụng ấy đã tạm đủ
để cho người Việt Quốc Gia hiểu rằng không thể tự nhiên mà được Cộng Ðồng Quốc
Tế ban cho những lời ca tụng ấy và không phải bất cứ người Việt Quốc Gia nào
cũng có cơ hội được hưởng những lời ca tụng ấy.
Bốn mươi lăm chính phủ Hội Viên của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc
đã thừa nhận Chính Phủ Diệm và lập quan hệ ngoại giao chính thức với Chính Phủ
ấy. Chính Phủ Diệm cũng còn được hưởng quy chế quan sát viên thường trực tại
Liên Hiệp Quốc.
Nhiều Cường Quốc và nhiều Quốc Gia Tự Do đã mời ông Ngô Ðình
Diệm tới thăm chính thức tại Nước họ để được nghe ông Diệm nói về triển vọng
xây dựng một miền Nam Việt Nam Tự Do và Dân Chủ. Cử chỉ mời ông Diệm tới thăm
chính thức cũng là một hình thức để các Quốc Gia thân hữu ấy chứng tỏ cho Thế
Giới biết rằng không phải họ chỉ có gởi tới ông Diệm những lời ca tụng xuông mà
thôi.
Có theo dõi những buổi thuyết trình, chiếu lại hình ảnh
những khi ông Diệm đọc diễn văn trước các Cơ Quan Hiến Ðịnh cao nhất của các
Quốc Gia thân hữu ấy, có quan sát sự kính nể mà các Nhà Lãnh Ðạo Quốc Gia ấy
dành cho ông Diệm và có nhìn thấy thái độ tự trọng, tự tin và rất trang nghiêm
đầy tinh thần Kẻ Sĩ Ðông Phương của ông Diệm trong cương vị đại diện chính thức
cho Dân Tộc Việt Nam, người ta lại càng thêm tin rằng quả thật lòng yêu nước
nhiệt thành và Tinh Thần Quốc Gia cao độ của ông Diệm đã mang lại cho ông sự
kính nể và ngưỡng mộ của Thế Giới bên ngoài.
Sau khi ông Diệm bị giết hại rồi, từ đó về sau, cho tới ngày
miền Nam Việt Nam sụp đổ vào cuối tháng 4 năm 1975, Chính Quyền Quốc Gia của
Nam Việt Nam không bao giờ có được một người lãnh đạo có hào quang tối thiểu để
được Cộng Ðồng Quốc Tế kính trọng nữa.
Chính Quyền Ngô Ðình Diệm là Chính Quyền duy nhất của người
Việt Quốc Gia tạo được Chính Danh, Chính Thống và Chính Nghĩa cho công cuộc
chống cộng của người Việt Nam.
CHIẾN DỊCH TỐ CỘNG
Một trong những thành tích được nhắc nhở nhiều của Chính
Quyền Ngô Ðình Diệm là Chiến Dịch Tố Cộng. Ðể tránh dùng những chữ lớn, ta hãy
lượng định kết quả Chiến Dịch ấy bằng một tiêu chuẩn thiết thực, đó là cuộc
trắc nghiệm để xem người dân miền Nam Việt Nam ủng hộ Chính quyền Diệm tới mức
nào và nếu có sự ủng hộ đó thì sự vạch mặt chỉ tên những tên cộng sản nằm vùng
sẽ là cái thước để đo sự ủng hộ ấy. Cho tới năm 1959, kết quả thâu được cho
Chiến Dịch ấy thật là tốt đẹp, người dân miền Nam đã sốt sắng chỉ chỗ ẩn núp,
cho tên tuổi những tên cộng sản nằm vùng để Chính Quyền Quốc Gia theo dõi hoặc
bắt giữ.
Cũng nên nhắc lại là từ năm 1954 cho tới 1956, tập đoàn lãnh
đạo Hà Nội ung dung ngồi chờ Chính Phủ Diệm sụp đổ. Sau năm 1956, Chính Phủ
Diệm không những đã không chết mà lại vững mạnh hơn rất nhiều và nhất là Chiến
Dịch Tố Cộng bắt đầu tàn phá hàng ngũ nằm vùng của cộng sản thì Hà Nội thật sự
lo ngại.
Năm 1956, Hà Nội phái Lê Duẩn vào miền Nam để làm sống lại
cơ cấu nằm vùng của cộng sản tại miền Nam. Người ta biết rằng Duẩn đã ở lại
miền Nam từ 1956-1958.
Trong khoảng thời gian hai năm này, cộng sản ở miền Nam Việt
Nam đã khóc lóc để van xin Hà Nội cứu giúp, vì chiến dịch Tố Cộng của Chính Phủ
Diệm gây tai hại quá sức chịu đựng của bọn cộng sản nằm vùng ở miền Nam rồi.
Hà Nội họp đại hội đảng vào đầu năm 1959 để nghiên cứu cách cứu bọn đàn em ở miền Nam. Từ phiên
họp khoáng đại này, Hà Nội đi tới quyết định là dùng võ lực để chiếm miền Nam
Việt Nam.
Tuy trước đó, Hà Nội vẫn đều đều xâm nhập người và vũ khí từ
miền Bắc vào miền Nam, nhưng mức xâm nhập ấy chỉ để nuôi sống bọn đàn em ở miền
Nam, chứ không đủ để mong lật đổ Chính Quyền Quốc Gia của ông Diệm. Ðơn vị xâm
nhập quy mô đầu tiên mang bí số là 559, gồm trên 20.000 người (binh lính, cán
bộ và lao công). Bắt đầu xâm nhập vào miền Nam từ tháng 5 năm 1959. Số 559 là
bí số bắt nguồn từ thời điểm ‘’tháng 5 năm 1959’’). Tên Võ Bầm là sĩ quan cao
cấp đầu tiên của quân đội Hà Nội được chỉ định điều khiển đoàn xâm nhập 559. Ngày
25.2.1983, Tuần Báo The Economist của nước Anh ghi lại cuộc phỏng vấn Võ Bầm do
Ðài Truyền Hình Pháp, chương trình phim tài liệu thực hiện, với Phái viên
Jérôme Kanapa phỏng vấn. Võ Bầm đã thú nhận rằng sự xâm nhập quy mô đã bắt đầu
ngay từ năm 1959, nghĩa là hai năm trước khi Tổng Thống Kennedy bắt đầu đẩy
mạnh sự viện trợ quân sự cho miền Nam Việt Nam.
Vậy thì cho tới năm 1959, ít ra, quảng đại quần chúng của
miền Nam Việt Nam chưa bị các sự tuyên truyền phá hoại từ nhiều phía đầu độc sự
suy tưởng của họ và họ đã để Chính Quyền Diệm có cơ hội hành động.
Những hậu quả đầu tiên của sự xâm nhập quy mô từ miền bắc đã
để lại chết chóc gia tăng rất sớm. Thống kê về những sự ám sát Viên Chức Xã Ấp
tại miền Nam Việt Nam từ 1957 tới 1959 cho thấy rõ mức độ tàn phá gia tăng của
sự xâm nhập ấy. Thí dụ trong trọn năm 1958, có tất cả 193 vụ ám sát Viên Chức
Xã Ấp ở miền Nam Việt Nam, trong khi chỉ riêng bốn tháng cuối của năm 1959, đã
có tới 119 vụ ám sát tương tự (William Colby, ‘’Honorable Men...trang 158).
Chính Phủ Úc là một trong vài Quốc Gia sáng suốt và khôn
ngoan nên đã sớm hiểu các khó khăn của ông Diệm, và nhất là hiểu tại sao từ 1959
trở về sau, Chính Quyền ấy càng ngày càng phải cứng rắn hơn trước khi đối phó
với cộng sản. Chính Phủ Úc nhân dịp này đã gửi cho Thế Giới một lời khuyên
thiết thực, đầy khôn ngoan để Thế Giới ấy biết cách đánh giá hiệu năng của
Chính Quyền Ngô Ðình Diệm. Nhắc nhở Thế Giới là hãy đánh giá Chính Phủ Diệm
theo tiêu chuẩn Á Ðông và theo thực tế của tình hình, hơn là theo cách đánh giá
của Tây phương, Ngoại Trưởng Úc R. G. Casey viết: „Hai sự việc cần được mọi người ghi nhớ khi muốn chỉ trích Chính Quyền
Nam Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam đang ở tuyến đầu Chiến Tranh Lạnh. Chính Phủ
của Xứ ấy không thể để lộ một sơ hở nào khả dĩ cho đối phương khai thác. Một sơ
hở nào lộ ra cũng sẽ cực kỳ nguy hiểm, không những cho Việt Nam mà còn cho tự
do cả Ðông Nam Á nữa. Thứ hai, sự thực hiện dân chủ ở Cấp Bộ Quốc Gia là một
quan niệm hoàn toàn mới mẽ tại Việt Nam và cần phải có thời giờ để phát triển
các định chế, các truyền thông, các tập tục hầu thực hiện các quyền dân chủ
theo đường lối xây dựng và hữu trách.“ (Richard Lindhelm, “Vietnam The First Five Years” Ann Arbor, Michigan
1959, trang 344).
Ngày 27.1.1960, tại Trảng Sụp, gần biên giới Việt Miên trong
Tỉnh Tây Ninh, cộng quân đã đánh úp và gây thiệt hại rất nặng nề cho Hậu Trạm
một Trung Ðoàn Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa. Trận đánh úp này coi như chính thức
mở màn cuộc chiến tranh Ðông Dương II và cho thấy mức độ xâm nhập của cộng sản
vào miền Nam đã tới thời kỳ đe dọa sự tồn tại của miền Nam tự do.
Tháng 5.1960, Hà Nội họp tập đoàn lãnh đạo, rồi công khai
tuyên bố tại phiên họp ấy rằng „...đã đến
lúc kiên trì chiến đấu dũng cảm để diệt Chính Phủ Diệm.“ (William Colby, „Honorable
Men...“ trang 159).
Thêm một dấu vết rõ rệt nữa để chứng tỏ sự hữu hiệu của
Chiến Dịch Tố Cộng. Ðó là lời của hai tác giả Pháp thân cộng, Jean Lacouture và
Bernard Fall. Hai tên này chạy tội cho Hà Nội bằng cách nói rằng vì bị chính quyền
Diệm săn đuổi, lùng diệt dữ quá nên cộng sản „đành phải đánh trả để khỏi bị tiêu diệt“. Mặc dù đây là lời chạy
tội cho phía cộng sản, nhưng lời chạy tội ấy lại có một tác dụng dội ngược
không ngờ là đã trực tiếp nhìn nhận rằng quả thật Chiến Dịch Tố Cộng của Chính
Quyền Diệm đã đánh trúng huyệt của cộng sản.
Tháng 9 năm 1960, Hà Nội họp đại hội đảng lần thứ 3 để thông
qua nghị quyết tiến đánh chiếm miền Nam Việt Nam và để lừa gạt dư luận thế
giới. Công cụ ấy được mệnh danh là Mặt trận giải phóng miền Nam.
Trước khi Hà Nội khai sinh công cụ nói trên, có hai biến cố
tại Nam Việt Nam diễn ra theo chiều hướng bất lợi cho cuộc chiến đấu tự vệ của
Nam Việt Nam. Thứ nhất là „tối hậu thư“ của „nhóm Caravelle“ gửi ông Diệm và
thứ hai là cuộc đảo chính bất thành của một số sĩ quan cấp Tá đêm 11.11.1960.
Nhóm Caravelle
(dân chúng còn dùng danh từ mỉa mai „nhóm trí thức Caravelle“ để tặng nhóm này
nữa) gồm gần hai chục nhà „trí thức“ Việt Nam họp nhau tại Nhà Hàng Caravelle,
là Nhà Hàng sang trọng nhất Sài Gòn thời ấy để bàn „quốc sự“. Sau bữa tiệc linh
đình, với rượu ngon, gái đẹp, các vị trí thức ấy đã gửi tối hậu thư đòi Ông
Diệm phải cải tổ Chính Phủ và thay đổi đường lối lãnh đạo.
Trong điều kiện sinh hoạt chính trị bình thường, hiểu là
không bị cộng sản đe dọa, thì yêu cầu ấy thật hợp lý. Tiếc rằng các nhà trí
thức kia đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo thật ý nghĩa của Ngoại Trưởng Úc R.
G. Casey. Nói nôm na là họ đòi ông Diệm chia ghế lãnh đạo với họ.
Nhưng nguy hơn nữa là nhóm trí thức ấy không nhìn thấy nguy
cơ của cộng sản càng ngày càng lan rộng, càng đè nặng lên miền Nam Việt Nam. Theo
sự suy luận của nhóm trí thức ấy thì chỉ cần ông Diệm chia cho họ một số ghế
trong Chính Phủ thì nguy cơ cộng sản sẽ tự nhiên tan biến như một phép lạ.
Người ta có thể chỉ trích ông Diệm về nhiều điều, nhưng không thể phê bình ông
về cái nhìn sắc bén cũng như thiết thực về nguy cơ của cộng sản. Hãy cứ tưởng
tượng sự lãnh đạo miền Nam được trao vào tay gần hai chục nhà đại trí thức ngây
thơ thuộc nhóm Caravelle thì sự sống còn của miền Nam Việt Nam trong tự do sẽ
đếm được bao nhiêu ngày sau đó?
Cuộc đảo chính đêm 11.11.1960 diễn ra một cách rất tài tử,
hay dùng chữ chính xác hơn nữa, một cách ngu xuẩn. Chưa tới hai chục sĩ quan
cấp Tá, lớn nhất là cấp bậc Trung Tá, nhờ móc nối được với một vài Ðơn Vị Dù
đồn trú gần Sài Gòn, đã mưu lật đổ Chính Phủ Diệm. Có hai nét nổi bật về thân
thế đa số sĩ quan chủ mưu cuộc đảo chánh ấy. Thứ nhất phần lớn đều xuất thân từ
quân đội thực dân Pháp. Ý niệm yêu nước, độc lập và chống cộng của họ đã bị
người Pháp uốn nắn nên đã trở thành rất lờ mờ. Thứ hai, đa số là Huấn Luyện
Viên tại Trường Ðại Học Quân Sự (Trường này trước năm 1955 là Viện Nghiên Cứu
Quân Sự của Pháp tại Việt Nam. Khi Pháp rút hết thì Trường ấy trao lại cho
Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, được đổi tên là Trường Ðại Học Quân Sự, rồi đến
giai đoạn chót, trước khi Nam Việt Nam sụp đổ, được cải danh thành Trường Chỉ
Huy và Tham Mưu). Tất cả đám chủ mưu này không ai có thành tích tranh đấu về
chính trị và chưa bao giờ tham chính. Người duy nhất giữ được tư cách và khí
phách là Trung Tá Nguyễn Triệu Hồng và ông ta là người chết đầu tiên khi cầm
đầu một đám đàn em xung phong chiếm Tổng Nha Cảnh Sát.
Ða số kẻ chủ mưu cuộc đảo chánh này đã theo đường bộ trốn
thoát sang Cao Mên. Trong số này, có Đại úy thi sĩ Phan Lạc Tuyên, tác giả
nhiều bài thơ tình cảm dân tộc rất được ưa chuộng, đã bị cộng sản tại Cao Mên
móc nối, hứa hẹn trời biển sao đó mà ông ta đã bỏ hàng ngũ Quốc Gia để gia nhập
vào quân đội cộng sản. Chúng đã phong cho ông ta tới chức Trung đoàn trưởng (có
được thật sự chỉ huy một Trung đoàn hay không là điều không cần bàn ở đây) và
nghe nói việt cộng mang tên tuổi ông ta dùng vào việc tuyên truyền sách động
quần chúng trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.
Sau cuộc đảo chính bất thành ấy, khi nghe thuộc hạ báo cáo
về xuất xứ thành phần „Phản loạn“ phần lớn là sĩ quan Huấn Luyện Viên của
Trường Ðại Học Quân Sự, ông Diệm đã gọi Trường ấy là „Trường phản loạn“ và ít
ngày sau đó ông ra lệnh đuổi Trường ấy lên Thành Phố Cao Nguyên Ðà Lạt.
Vài nét vắn tắt về Trường Quân Sự này sẽ không vô ích, vì nó
giúp người đọc hiểu thêm chút nữa về lý do khiến cho một số Quân Nhân miền Nam
Việt Nam thù hận ông Diệm. Khi gọi Trường ấy là „Trường phản loạn“, có thể ông
Diệm không ngờ rằng chính cái chính sách dùng người của ông ta đã cung cấp chất
liệu để dần dần, tạo thành tinh thần phản loạn tại Trường ấy. Ông Diệm đi tiên
phong chính sách dùng người „theo tín nhiệm hơn là theo khả năng“. Nhiều Sĩ
Quan Tỉnh Trưởng hoặc Quận Trưởng được thăng cấp rất mau, được ban thưởng hậu
hĩ, nhưng cũng có thể bị cất chức rất mau. Một số đông quý vị sĩ quan từng được
ân sủng như thế đã được tuyên chuyển về làm Huấn Luyện Viên Trường Ðại Học Quân
Sự. Vì lúc ấy, miền Nam chưa có Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng nên Trường Ðại Học
Quân Sự là Trường Cao Cấp nhất của Nam Việt Nam. Là Quân Trường cao cấp nhất,
nhưng Trường ấy lại chứa nhiều kẻ bất mãn nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Chưa có Ðơn Vị Quân Ðội nào lại chứa nhiều kẻ thất sủng đến như vậy, đa số
Huấn Luyện Viên tới lớp dạy học thường vẫn còn phô trương cái thuở
vàng sonquá khứ của họ khi vên váo kể cho các Sĩ Quan Khóa Sinh nghe thời
kỳ họ còn cai trị ở Tỉnh này, ở Quận kia v.v...Ngoài sự căm thù ông Diệm đã cất
chức họ, nhiều Sĩ Quan của Trường Ðại Học Quân Sự lại có một lý do khác nữa,
chẳng cao quý gì, để thù hận ông Diệm thêm. Trong những lúc rãnh rỗi, họp nhau
tại Câu Lạc Bộ của Trường, hoặc tụ họp nhau để ăn nhậu say sưa tại một hàng
quán sang trọng nào đó, đám Sĩ Quan này thường chửi rủa ông Diệm vì ông đã
‘’ngăn cản không cho họ được sống xa hoa, trụy lạc bừa bãi’.
Vụ nhóm "trí thức" Caravelle được nhà báo Tây
phương ác cảm với Chính Quyền Diệm thổi phồng thành một lý do để đám nhà báo ấy
kết án Chính Quyền Diệm là „thiếu căn bản dân chủ“. Vụ đảo chính bất thành
11.11.1960 được bọn nhà báo ấy suy diễn là „Quân Ðội Nam Việt Nam không tín
nhiệm ông Diệm và không muốn ủng hộ ông ta nữa“. Dĩ nhiên, hai điều này đã được
Hà Nội tận tình khai thác. Nhưng chúng vẫn chưa thấy là đủ để dùng đòn độc hạ
thủ ông Diệm. Chất liệu độc thủ ấy đã được một số người thuộc thành phần
"trí thức" miền Nam dâng cho Hà Nội để từ đó, đẻ ra cái quái thai
chính trị gọi là "Mặt trận giải phóng miền Nam".
Cái quái thai chính trị này là lá bài then chốt của Hà Nội
để che mắt thế giới hầu đẩy mạnh cuộc xâm lược võ trang chiếm miền Nam sau này.
Từ 1960 là thời điểm Hà Nội khai sinh tổ chức gọi là "Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam" cho chúng. Ngày chúng chiếm được Nam Việt Nam vào cuối tháng
4.1975, cái đám trí thức miền Nam nói trên đây, vừa ngu dại, kiêu căng lại vừa
thiển cận đã đắc lực giúp Hà Nội trên mặt trận quốc tế vận cũng như trên mặt
trận dụ dỗ người nông dân miền Nam Việt Nam.
Năm 1961 có hai biến chuyển lớn. Một là sự tái đắc cử của
ông Diệm vào tháng 4 năm ấy và hai là việc Nghị Sĩ trẻ tuổi John F. Kenedy nhận
chức Tổng Thống Mỹ. Ngay sau khi biết ông Diệm tái đắc cử, cộng sản biết rõ
rằng trong những năm tới, chúng còn khốn đốn hơn nữa vì chủ trương triệt để
chống cộng của ông Diệm. Do đó, cộng sản quốc tế la làng rằng ông Diệm „...là kẻ thù của nhân dân Á Châu và là
chướng ngại chính cho sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại Á Châu.“
(Vietnam Crisis trang 110).
ẤP CHIẾN LƯỢC
Dầu cho kế hoạch lập Ấp Chiến Lược của Chính Quyền Ngô Ðình
Diệm được ca tụng hay bị chê bai thì kế hoạch ấy cũng là một trong những điều
được chú ý nhiều.
Kế hoạch gom dân lại để tách họ khỏi sự khủng bố của cộng
sản và cũng để cộng sản không bám được vào dân mà kiếm lương thực, không phải
là sáng kiến mới mẻ gì của miền Nam Việt Nam. Phi Luật Tân và Mã Lai đã dùng
công thức ấy để chống cộng sản và hai xứ ấy đã thành công, nhất là Mã Lai. Công
thức này làm cho người dân gần với nhau hơn và làm cho người dân gần gũi với
chính quyền hơn. Khi còn ở lẻ tẻ, rải rác, cách xa nhau, họ dễ làm mồi cho cộng
quân giết hại. Nếu vào trong một Ấp rồi thì người dân sẽ cảm thấy tự tin hơn vì
biết rằng cộng quân sẽ phải đánh lớn nếu muốn giết hại dân và nếu muốn cướp
thực phẩm của dân. Kế hoạch gom dân như thế đã thành công tại Phi Luật Tân và
tại Mã Lai nhờ người dân ở hai xứ ấy đã sớm hiểu được hai điều sinh tử trong
cuộc chiến chống cộng sản. Một là người dân hai xứ ấy, tuy không cần phải có
trình độ học thức cao, nhưng đã sớm hiểu rằng họ bắt buộc phải hy sinh một phần
tự do cá nhân của họ để đổi lấy sự bảo vệ của Chính Quyền Quốc Gia. Ðiều thứ
hai còn quan trọng hơn nữa, là họ hiểu rằng trong cuộc chiến tranh tệ hại như
chiến tranh chống cộng, nếu người dân không chịu hợp tác với Chính Quyền rồi
thì trước sau, người dân cũng sẽ trở thành nô lệ cho cộng sản. Khi ấy thì không
một sức mạnh quân sự nào của Chính Quyền Quốc Gia hoặc của một Cường Quốc bạn
nào khác có thể giải thoát được họ nữa.
Tại Nam Việt Nam, từ 1962 cho tới tháng 5 năm 1963, Chính
Quyền Diệm đẩy mạnh việc lập các Ấp Chiến Lược và gọi kế hoạch ấy là ‘’Quốc
sách’’. Kết quả sơ khởi rất tốt đẹp. Chỉ nói riêng về Tỉnh Long An, Chính Quyền
Tỉnh ấy đã gom được dân vào 220 Ấp Chiến Lược và trong thời gian gần một năm,
Chính Quyền Long An đã dồn được các phần tử việt cộng vào 35 Ấp còn lại. Sự cô
lập các phần tử việt cộng tại các Tỉnh khác cũng được ghi nhận là khả quan. Nói
một cách khác, kế hoạch lập Ấp Chiến Lược đe dọa sự sống còn của cộng sản ở
miền Nam Việt Nam.
Kể từ lúc ông Diệm tái đắc cử, Hà Nội đã đặt ưu tiên cao
nhất là việc phải hạ bệ ông Diệm cho bằng được. Hà Nội còn phải vùng vẫy để
thoát khỏi gọng kìm tai hại của kế hoạch Ấp Chiến Lược. Một cái bẫy thật lớn
được Hà Nội tung ra để mưu loại ông Diệm. Không phải vì tình cờ mà kế hoạch phá
các Ấp Chiến Lược do Hà Nội phát động lại đồng thời với cuộc khủng hoảng Phật
Giáo tại miền Nam Việt Nam.
Nếu chỉ hoàn toàn dựa vào chém giết và khủng bố thì có thể
Hà Nội rốt cuộc sẽ làm cho nông dân vì khiếp sợ quá mà quay lại chống trả bọn
chúng. Phải có một chiêu bài khác để vừa dụ nông dân miền Nam, vừa lừa bịp được
thế giới bên ngoài. Nên khen Hà Nội có tài dụ dỗ giỏi để đưa được một đám trí
thức miền Nam vào cái bẫy sập, hay là nên ngậm ngùi rằng miền Nam lại có thể
sản xuất được một số trí thức ngu xuẩn đến mức độ làm tay sai cho một bọn phản
quốc có hạng mà lại cứ tưởng rằng mình khôn ngoan lắm và yêu nước lắm? Có lẽ
nên nghĩ tới sự ngậm ngùi cho đám trí thức ấy thì đúng hơn, vì khen cộng sản
lừa bịp giỏi là làm một việc vô ích.
Từ lúc kế hoạch lập Ấp Chiến Lược bắt đầu được thi hành cho
đến khi bùng nổ cuộc khủng hoảng về Phật Giáo tại Nam Việt Nam, thời gian trôi
qua chưa tới một năm. Ðó là một khoảng thời gian chưa đủ để lượng định về kết
quả của một kế hoạch có tầm mức chiến lược như vậy. Dầu sao, người ta cũng đã
thấy những nhược điểm lớn nhất của kế hoạch hiện ra.
Nhược điểm đầu tiên là kế hoạch ấy được thảo bởi hai nhân
vật rất ít hiểu biết về tình hình chiến tranh khuynh đảo của cộng sản quốc tế.
Staley là một người Mỹ chưa từng có một chút kinh nghiệm nào về chiến tranh dấy
loạn. Vũ Quốc Thúc là một Nhà Trí Thức Việt Nam chưa bao giờ được coi là người
có kiến thức tối thiểu về chiến tranh du kích. Người ta hiểu rằng hai người vừa
kể ít ra cũng đã có „tham khảo“ một số người, có thể là đã tham khảo luôn cả Cố
Vấn Phản Du Kích của Chính Phủ Mã Lai là ông Robert Thonpson, nhưng bấy nhiêu
chưa đủ. Một điều nguy hại cho kế hoạch ấy ngay từ khởi điểm là Staley/Thúc có
vẻ như đã tin rằng kế hoạch gom dân để tách họ ra khỏi quân phiến loạn đã thành
công tại Mã Lai và tại Phi Luật Tân thì cũng sẽ thành công tại Nam Việt Nam.
Như đã ghi ở đoạn trên, kế hoạch gom dân tại hai nước bạn
thành công vì người dân ở hai xứ ấy khôn ngoan hơn người dân miền Nam Việt Nam.
Vì khôn ngoan nên họ chấp nhận hy sinh một phần các quyền tự do hàng ngày của
họ, biết rằng sự hy sinh ấy không vô ích, vì nếu để cho cộng sản cướp được
chính quyền thì họ sẽ chẳng còn được hưởng chút tự do nào nữa.
Vì không có được sự khôn ngoan bình dân ấy ngay từ đầu nên
người nông dân miền Nam Việt Nam không tha thiết với việc ra khỏi ruộng vườn
nhỏ bé của họ để vào sống trong Tổ Chức Ấp Võ Trang Tự Vệ.
Thêm vào cái tâm lý tiêu cực vừa kể, ít ra cũng còn ba điều
khác nữa làm cho người nông dân miền Nam Việt Nam càng thêm tiêu cực với kế
hoạch lập Ấp Chiến Lược. Thứ nhất là kinh nghiệm của họ với nền hành chánh thời
Pháp thuộc. Họ đã bị đày đọa quá nhiều vì thực dân và vì đám người Việt làm tay
sai cho thực dân như đám Ðốc Phủ Sứ, đám Huyện, đám Cai Tổng v.v... Người ta có
thể hiểu tâm trạng thất vọng não nề của những nông dân ấy khi phải sống dưới
một chính quyền chỉ biết bóc lột dân và không hề có chút kính trọng tối thiểu
đến đời sống của người dân.
Nỗi thất vọng chồng chất ấy được giải tỏa khi nông dân tin
rằng những người cộng sản sẽ mang lại cho họ no ấm, tự do và sự kính trọng. Sự
tin tưởng lãng mạn ấy đưa họ đến một kết luận vội vàng là giữa chính quyền của
thực dân và chính quyền cộng sản, không có một thứ nào ở giữa. Người nông dân
ấy không nghĩ được rằng có thể có một chính quyền không cộng sản và không tồi
tệ như chính quyền thực dân ngày trước.
Ðiều thứ ba là sự ngu dại của đám "trí thức" miền
Nam thuộc thành phần gọi là Nhóm Liên Trường. Nếu trí thức miền Bắc Việt Nam
nổi bật vì sự khiếp nhược thì trí thức miền Nam Việt Nam nổi bật vì sự tự cao
và tự tin trong ngu dại. Không biết đám trí thức miền Nam này học được ở đâu mà
tự nuôi cái ảo tưởng rằng có thể thuyết phục được cộng sản Hà Nội để cho miền
Nam được sống yên ổn với một quy chế tự trị. Từ cái ý niệm sơ khởi vừa dại dột
lại vừa tai hại ấy, đám trí thức nói trên đã rất đắc lực tiếp tay với Hà Nội
trong kế hoạch làm sụp đổ Chính Quyền Ngô Ðình Diệm.
Hà Nội thảo ra kế hoạch ba mặt giáp công để hạ Chính Quyền
của ông Diệm. Mặt thứ nhất là khai sinh công cụ chính trị và tuyên truyền gọi
là Mặt trận giải phóng miền Nam. Mặt thứ hai là sách động dân quê miền Nam để
họ chống lại kế hoạch gom dân vào Ấp Chiến Lược. Mặt thứ ba là dùng Tôn Giáo để
cô lập Chính Quyền Diệm với Cộng Ðồng Quốc Tế, nhất là cô lập miền Nam với nước
Mỹ.
Người ta đã biết rằng cầm đầu đám "trí thức" miền
Nam thời ấy là tên Trương như Tảng. Vì có mặt của hắn và của một số trí thức
khác của miền Nam cũng ngu dại như hắn nằm trong cái gọi là "Mặt trận giải
phóng miền Nam Việt Nam", nên một phần lớn thế giới bên ngoài đã tin rằng
cái tổ chức ấy không lệ thuộc cộng sản Hà Nội. Sự tin tưởng ấy đã kéo theo vô
số nạn nhân trong đám trí thức Tây phương (Âu Châu, Mỹ Châu, Canada). Những
thiệt hại về sinh mạng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không nguy hại cho sự
sống còn của Việt Nam Cộng Hòa bằng những lời ca của Joan Baez, những lời tuyên
bố của nữ tài tử Jane Fonda và chồng của y thị là Tom Hayden, những bài báo và
những lời tuyên bố của Jean Paul Sartre, Oliver Todd, Jean Lacouture, Jean
Lartéguy, Pierre Darcourt...Tóm lại, Trương như Tảng và đồng bọn đã lập được
công lớn giúp Hà Nội ru ngủ và lừa bịp được thế giới bên ngoài trong suốt cuộc
chiến tranh Việt Nam.
Ở mặt trận thứ hai, một đám "trí thức" khác của
miền Nam (cũng trong cái gọi là Nhóm Liên Trường) đắc lực giúp Hà Nội bằng
chiến thuật nằm vùng. Khí giới của bọn này là báo chí và luôn cả sự tự do mà
chế độ Cộng Hòa của Nam Việt Nam để cho chúng được hưởng rộng rãi. Chủ lực của
đám trí thức này là những tên thuộc thành phần ‘’ngựa non háu đá’’và ‘’điếc
không sợ súng’’ như Lý quý Chung, Nguyễn hữu Chung, Hồ ngọc Nhuận v.v...
Những tên vừa kể mở hai chiến dịch. Thứ nhất là chiến dịch
gây thù hận giữa nông dân miền Nam và Chính Quyền Diệm. Thứ hai là chiến dịch
chia rẽ Nam và Bắc (đây là hậu thân của thủ đoạn chia rẽ Nam Bắc do thực dân
Pháp đẻ ra ngày trước).
Người ta đã được đọc những bài báo do đám "trí
thức" dại dột này viết về Ấp Chiến Lược. Trong những bài ấy, chúng gợi
trong lòng người nông dân miền Nam tình yêu Thôn Ấp và gợi ý tưởng căm thù
những ai muốn tách họ ra khỏi Thôn xóm của họ. Là thành phần thiếu hiểu biết,
ít suy nghĩ người nông dân miền Nam Việt Nam đã dễ dàng rơi vào cái bẫy của đám
trí thức tay sai cho cộng sản Hà Nội kia.
Khi còn cai trị Việt Nam, thực dân Pháp đã từng tung ra
chiến dịch gây căm thù giữa người miền Bắc và người miền Nam. Thời ấy, đã có
những kẻ ngu xuẩn ở miền Nam hăng hái thi hành kế hoạch chia rẽ hiểm độc và bần
tiện của thực dân. Thêm vào đó, lúc nào cũng có ở miền Nam Việt Nam một khuynh
hướng coi miền Nam không phải là một phần lãnh thổ của nước Việt Nam. Phần lớn
những kẻ có khuynh hướng này đều là nô lệ cho thực dân và được quan thầy Pháp
ban thưởng cho cái ân huệ ô nhục là được „vào dân Tây“.
Bọn trí thức „ngựa non háu đá“ tuy có được cắp sách đến
trường nhưng không chịu mở mắt để học về Lịch Sử của Dân Tộc Việt. Chúng trâng
tráo lớn tiếng nhục mạ những „người Bắc di cư“ trên mặt báo và tại những nơi công
cộng. Trong sự dại dột ấu trĩ, bọn chúng tưởng gây hận thù và chia rẽ như vậy
thì sau này chắc chắn sẽ được cộng sản Hà Nội để cho yên với chủ trương „miền
Nam của người Nam“.
Ngoài ra, còn hai điều khác nữa, một thuộc về quân sự và một
thuộc về tâm lý, làm cho kế hoạch lập Ấp Chiến Lược không thành công được. Về
quân sự, khi Ấp Chiến Lược đầu tiên được tổ chức xong thì cộng quân ở miền Nam
đã có khả năng mở cuộc tấn công đến cấp trung đoàn và cao hơn nữa. Về chiến
lược và chiến thuật, cộng quân có thể tập trung đông đảo quân số để đạt ưu thế
tạm thời rồi tấn công ồ ạt vào một vị trí cố thủ của quân chính phủ. Trước quan
niệm chiến lược vận động chiến của cộng quân, quan niệm cố thủ bằng đồn bót và
pháo lũy là quan niệm tất bại. Áp dụng quan niệm ấy cho Ấp Chiến Lược làm sao
có thể đánh bại được cộng quân?
Những người điều khiển lập Ấp Chiến Lược có một cái nhìn rất
lạc quan và rất chủ quan về khả năng của một Ấp Chiến Lược. Theo họ thì một khi
Ấp đã được cấp phát một số vũ khí thì dân trong Ấp có đủ khả năng đẩy lui mọi
cuộc tấn công quân sự của cộng quân. Không cần phải dùng nhiều lời cũng có thể
chứng minh rằng cái nhìn ấy quá sai lầm và bệnh hoạn. Các đồn bót của quân đội
Pháp trong trận chiến tranh Ðông Dương 1946-1954 và các đồn bót của Quân Ðội
Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1954 đều không giữ được nếu cộng quân quyết định trả
giá cao để diệt đồn. Trong khi đó, ngoài số vũ khí sơ sài và chỉ gồm vũ khí
nhẹ, dân trong Ấp lại không huấn luyện về quân sự. Nhưng nguy hại hơn nữa là
dân trong Ấp không có tinh thần tha thiết sống chết với Ấp. Một khi họ đã không
tha thiết cố thủ thì kế hoạch Ấp Chiến Lược chắc chắn sẽ thất bại. Ðã thế, dân
trong Ấp còn được bọn "trí thức" tay sai của Hà Nội ngày đêm nhồi vào
đầu họ cái ý nghĩ căm thù chính quyền Quốc Gia, vì đã "cưỡng bắt họ từ bỏ ruộng vườn để vào Ấp sống như trong một trại
tập trung". Một Ấp Chiến Lược nào đó bị cộng quân đánh tan sẽ là một
lý do để nông dân miền Nam trốn khỏi Ấp để trở về nhà cũ.
Ðiều thứ hai là tinh thần Cán Bộ Dân Sự và Quân Sự của miền
Nam trong việc thi hành kế hoạch lập Ấp Chiến Lược. Người viết sách này ghi
nhận được nhiều điều bi hài trong thời kỳ có các Khóa Huấn Luyện về Ấp Chiến
Lược tại Trung Tâm Suối Lồ Ô (gần Biên Hòa).
Những người được cử đi học, đều mang sẵn trong đầu tâm trạng
bị động và chủ bại. Một điều đáng buồn cần ghi ở đây là trong suốt thời T.T.
Ngô Ðình Diệm cũng như sau đó, hàng ngũ người Quốc Gia rất ít có Cán Bộ nhiệt
tình và tận tụy cho Chính Nghĩa Quốc Gia. Do đó, kế hoạch và chính sách có hay
đến đâu cũng không hy vọng thành công. Cán Bộ Ấp Chiến Lược đi học với một tâm
trạng bất mãn thì làm sao còn hăng hái sống chết với dân trong Ấp?
TRỤC XUẤT KÝ GIẢ BÁO CHÍ
Người viết sách này luôn luôn kính phục sự hiên ngang của
ông Ngô Ðình Diệm trong tác phong làm người Lãnh Ðạo Quốc Gia của ông. Sự hiên
ngang ấy được chứng tỏ nhiều lần và càng được chứng tỏ trong vụ Phật Giáo miền
Trung năm 1963. Bọn nhà báo truyền hình Mỹ thù ghét ông vì ông đã dậy cho chúng
một bài học về sự lễ độ đối với người Cầm Ðầu của một Quốc Gia. Bọn ấy tuy thù
ghét ông, nhưng chắc chắn là chúng không thể coi thường ông, như chúng đã quen
coi thường người lãnh đạo của nhiều Nước nhược tiểu lệ thuộc vào viện trợ của
nước Mỹ.
Người ta không ngạc nhiên khi thấy nhiều tờ báo lớn của Mỹ,
nhất là tờ New York Times và Hãng thông tấn Accociated Press hằn học hàng ngày
chỉ trích thậm tệ và cay cú bôi bẩn Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm. Bọn ấy chỉ trích quá
lố đến nỗi một tác giả lương thiện của nước Mỹ là Richard Tregakis phải lên
tiếng than rằng „Kennedy chịu ảnh hưởng
của tờ New York Times qua David Halberstam nhiều hơn ảnh hưởng của bất cứ một
giới chức nào trong chính quyền Mỹ.“ (Vietnam Crisis, trang 125)
Trước thái độ thù nghịch phi lý ấy của bọn báo chí Mỹ, ông
Diệm không còn cách nào khác hơn là bảo vệ danh dự của người Lãnh Ðạo Việt Nam
Cộng Hòa. Ðó là điều tối thiểu mà ông ta phải làm, nếu không muốn bị chính
người dân Việt coi thường. Nhiều tên ký giả thù nghịch với Nam Việt Nam bị trục
xuất. Bị trục xuất rồi, bọn ấy lại càng thù nghịch hơn, càng phá hoại nhiều hơn
nữa.
Thái độ thù nghịch ấy phơi ra ánh sáng căn bệnh tệ hại trầm
trọng mà bọn làm báo và viết báo ở bất cứ chân trời nào cũng mắc phải. Nếu có
khác nhau thì chỉ là ở mức độ cao và thấp. Căn bệnh ấy là sự hống hách và sa
đọa của bọn ký giả, nhất là những tên ký giả có đôi chút danh tiếng. Trong khi tự
phong cho mình cái vai trò „điều tra“ thì những tên ký giả ấy thường chờ đợi
những người Lãnh Ðạo Quốc Gia, những người làm chính trị tỏ vẻ sợ hãi và phải o
bế chúng. Không thiếu gì chánh khách vì quá sợ bị chúng xuyên tạc và bôi bẩn
nên đã phải lo lót chúng bằng ân huệ và bằng sự sợ sệt, nhiều khi khúm núm
trước mặt bọn chúng nữa. Bọn nhà báo dám xấc láo như vậy chỉ vì từ lâu nay,
chúng quen chửi bới và vu cáo những người khác, nhưng đến khi chính bọn chúng
phạm tội thì không bao giờ chúng có sự lương thiện tối thiểu để tự thú nhận.
Rất ít khi thấy có trường hợp một tờ báo lớn của Tây Phương phanh phui tội lỗi
của bọn ký giả ở một tờ báo khác làm bậy, làm nhục thanh danh của người cầm
bút.
Ngày 18.2.1963, khi phái viên của Tuần Báo Mỹ US News & World
Report tại Sài Gòn hỏi ông Diệm tại sao ông trục xuất nhiều ký giả ngoại quốc
như vậy, ông Diệm bình thảm trả lời: „Họ
đã ngang nhiên nhục mạ và bôi bẩn chúng tôi, trong khi chúng tôi đang theo đuổi
một cuộc chiến quyết liệt cho sự sống còn và cho sự bảo vệ một vùng biên giới
sinh tử của Thế Giới Tự Do.“
Sự hằn học của báo chí Mỹ đối với Chính Quyền Diệm càng ngày
càng tệ hại, nhất là từ khi bùng nổ cuộc khủng hoảng về Tôn Giáo do bọn Trí
Quang gây ra, đến nỗi Linh Mục De Jaegher phải nói thẳng vào mặt tên Malcolm
Browne là kẻ được coi là „hung thần“ của Hãng Accociated Press tại Sài Gòn: „Quý vị đang bóp méo sự thật trong vụ Phật
Giáo. Nếu cứ tiếp tục, quý vị có thể hạ được ông Diệm. Quý vị có sức mạnh để
làm được việc ấy. Nhưng nếu làm điều ấy rồi thì nhiều thanh niên Mỹ sẽ phải tới
Việt Nam để thay thế và những thanh niên ấy sẽ chết tại Việt Nam.“ (Vietnam
Crisis trang 104).
Lời cảnh cáo của Linh Mục De Jaegher cũng là lời tiên tri
được nghiệm rất đúng sau khi ông Diện bị hạ sát.
Phải chờ mãi tới sau năm 1975, thế giới bên ngoài mới tìm
được giải đáp cho thái độ thù nghịch đến phi lý của bọn báo chí Mỹ. Ðó là sự
tiết lộ động trời của ông Denis Warner, một Nhà Báo lão thành quốc tịch Úc và
là người đã theo sát chính trị của Ðông Nam Á từ năm 1945. Bí ẩn về sự thù
nghịch kia được làm sáng tỏ, khi ông Warner cho biết rằng trong cuộc chiến
tranh Việt Nam, cộng sản quốc tế đã dùng một ngân khoảng không giới hạn để tài
trợ mặt trận tuyên truyền. Ngân khoảng ấy được mở tại một trương mục mang số
5210-10-045-34 thuộc Ngân Hàng Skandinaviska Banken ở Thủ Ðô Stokholm của Thủy
Ðiển. Trương mục này xuất tiền cho những kẻ chửi thuê, khen mướn theo chỉ thị
của cộng sản quốc tế, với mục đích tối hậu là làm cho nước Mỹ bỏ cuộc tại Việt
Nam (Denis Warner, „Not With Guns Alone: How Hanoi Won The War“ Hutchinson
Group of Australia 1977, trang 183).
Một tháng sau khi ông Diệm bị hạ sát, tên David Halberstam
của báo New York Times và tên Malcolm Browne của hãng thông tấn Associated
Press nhận lãnh giải thưởng báo chí Pulitzer vì đã có công „xuất sắc tường trình về cuộc khủng hoảng Phật Giáo tại Nam Việt Nam.“
Trước cảnh lãnh giải thưởng vô liêm sỉ ấy, tướng hồi hưu của Quân Lực Mỹ là
Thomas A. Lane viết trong cuốn sách về sự nghiệp của Tổng Thống Kennedy rằng: „Giải thưởng ấy nên được trao tặng tại
Ðiện Cẩm Linh của đế quốc Xô Viết và trước sự dàn chào của hồng quân Nga.“
CHÍNH PHỦ MỸ VÀ CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Ông Diệm chết nhưng chết vì sự phản bội của Ðồng Minh Mỹ. Sự
phản bội ấy chỉ được hoàn thành sau khi người Mỹ thuê mướn được một đám Tướng
lãnh của Nam Việt Nam cúi mặt làm cái việc hèn hạ nhất là „giết mướn“ người
lãnh đạo hợp pháp duy nhất của miền Nam tự do.
Sau khi ông Diệm chết, chính quyền Kennedy nhiều lần cố gắng
thanh minh với Thế Giới rằng nước Mỹ không dính líu gì tới vụ giết ông Diệm,
nhưng những lời thanh minh ấy không thuyết phục được Thế Giới bên ngoài. Thế
Giới ấy gần như nhất trí với nhau trong ý nghĩ là quả thật nước Mỹ đã đối xử
thiếu văn minh với một đồng minh nhỏ bé của mình trong lúc Ðồng Minh ấy phải
đương đầu với những khó khăn ghê gớm trong nội bộ. Chung cuộc, Quốc Hội của
nước Mỹ đã định lượng thế nào về cách đối xử tiểu nhân ấy?
Thoạt đầu, cái Quốc Hội ấy ngập ngừng, chưa biết phải lên
tiếng ra sao. Nhưng rồi trước sự soi mói của thế giới, Quốc Hội ấy đành phải
lên tiếng. Hai Nghị Sĩ có tiếng nói mạnh của Quốc Hội Mỹ là William Fulbright
và Everett Dirksen nói rằng: „Quyết định
hạ sát ông Diệm là một sự sai lầm.“
Ngày 3 tháng 1 năm 1965, Nghị Sĩ Mike Mansfield tuyên bố với
hai tác giả Stephen Pan và Daniel Lyons: „Chúng
tôi đã đền tội vì đã loại trừ ông Diệm.“ Rồi đến ngày 26.1.1966, cũng Nghị
Sĩ ấy lại nói với hai Tác giả kể trên rằng: „...Lỗi
lầm tồi tệ nhất của chúng tôi là đã hạ sát ông Diệm.“ (Vietnam Crisis,
trang 133).
Tài liệu của Ngũ Giác Ðài phổ biến về sau này còn ghi rõ hơn
nữa về trách nhiệm không thể chối cãi được của nước Mỹ trong sự bức tử người
Lãnh Ðạo Việt Nam Cộng Hòa. Tài liệu ấy viết:
„Về cuộc đảo chính
quân sự chống lại Ngô Ðình Diệm, nước Mỹ phải nhận hoàn toàn trách nhiệm của
mình trong đó. Từ đầu tháng 8 năm 1963, chúng ta đã lần lượt, khi thì cho phép,
khi thì cản lại, khi thì khuyến khích đám Tướng lãnh Nam Việt Nam và đề nghị sẽ
hoàn toàn ủng hộ một chính phủ thay thế. Ðến tháng 10, chúng ta cắt viện trợ để
làm áp lực trực tiếp vào Diệm, do đó chúng ta bật đèn xanh cho đám Tướng lãnh.
Chúng ta lén lút duy trì liên lạc với đám Tướng lãnh ấy, tán thành việc lập kế
hoạch và sự thi hành cuộc đảo chính ấy, duyệt xét các kế hoạch của họ và đề
nghị một chính phủ mới. Vậy triều đại chín năm của Ngô Ðình Diệm chấm dứt bằng
một sự kết thúc đẫm máu. Sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông ta làm
tăng trách nhiệm của chúng ta vào một nước Việt Nam không có lãnh đạo nữa.“
(The Pentagon Papers, Senator Gravel Edition 1975, Volume II, trang 207).
Sau khi tuyên thệ thay thế ông Kennedy bị ám sát ba tuần sau
cái chết của ông Diệm, Tân Tổng Thống Mỹ Lyndon B. Johnson tâm sự với báo chí
Mỹ về cái chết của ông Diệm: „Việc giết
ông Diệm là một trong các thảm kịch lớn nhất của thời đại chúng ta.“
(Vietnam Crisis trang 133).
William Colby, trùm CIA của Mỹ thì nói thẳng ra cái trách
nhiệm của nước Mỹ về cái chết của ông Diệm: „Ðây
là một cuộc đảo chính của Tướng lãnh Nam Việt Nam đúng thế, nhưng tôi nghĩ rằng
những điều căn bản của cuộc đảo chính ấy đã được định đoạt tại Bạch Cung của
chúng ta.“ (Michael Mc.
Lear, “The Ten Thousand Day War” St. Martin Press, New York 1981, trang 66).
Trong tác
phẩm vừa được viện dẫn, trùm CIA Colby còn nêu rõ cái khoảng trống lãnh đạo bi
thảm chắc chắn sẽ diễn ra khi ông Diệm không còn Lãnh Ðạo Nam Việt Nam nữa. Colby
ghi rằng trong suốt năm 1963, nói đúng hơn là cho tới ngày ông Diệm bị hạ sát,
các Cố Vấn của Kennedy chia làm hai phe, với hai chủ trương khác nhau. Một phe
cho rằng nước Mỹ sẽ không thể thắng nổi nếu còn ủng hộ Chính Quyền Diệm. Phe
kia thì chủ trương phải thay thế ông Diệm. Cố vấn quân sự cao nhất của Kennedy
lúc ấy là Tướng Maxwell Taylor tuy không ngã hẳn về phe nào, nhưng ông ta đã
làm một việc rất thiết thực là đặt câu hỏi then chốt cho cả hai phe: “Có thể chúng ta không thắng được với sự ủng
hộ Diệm, nhưng nếu không có Diệm thì có ai?” Sau câu hỏi đó, chỉ có một sự
im lặng nặng nề tiếp theo.
Trên Tuần
báo Mỹ Time đề ngày 1.1.1965, Bình Luận Gia Joseph Alsop đưa ra lời phê bình
nghiêm khắc nhất nhắm vào những kẻ đã hung hãn chỉ trích Chính Quyền Diệm:
“Gần giống như là sự ngu xuẩn một cách hài hước
khi người ta đòi tổ chức một chính phủ ở Việt Nam để làm vừa lòng những kẻ viết
bình luận cho báo chí Mỹ, là những kẻ không hiểu biết gì về Á Châu và những kẻ
ấy lại luôn luôn quên rằng nếu thay thế thì chỉ còn có chủ nghĩa cộng sản hung
ác cho Á Châu. Chẳng còn cách nào khác hơn là phải đối phó với chiến tranh
trước đã, rồi sau hãy nói tới các vẫn đề chính trị. Ðối phó với chiến tranh là
con đường duy nhất để tạo các điều kiện thiết yếu cho một chính phủ tương đối
ổn định. Chính phủ bất ổn chính vì chiến tranh diễn ra tồi tệ.”
Chín tuần sau khi Alsop viết bài bình luận trên đây thì Lữ
Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Hải Cảng Ðà Nẵng, mở đường cho
cuộc đổ bộ trên nửa triệu Quân Mỹ vào Nam Việt Nam.
Từ đây trở về sau, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải chiến
đấu trong hoàn cảnh và khung cảnh khó hơn thời Ngô Ðình Diệm rất nhiều, họ sẽ
phải tự tìm lại khí giới tinh thần để giúp họ giữ vững ngọn lửa hăng say và
quyết liệt chống cộng. Chỉ mới vài tháng sau cái chết của ông Diệm, Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa đã sớm thấy rõ tầm vóc cái khoảng trống lãnh đạo vô cùng tai
hại đang chờ đợi họ trước mặt.
***
Khi nằm xuống, ông Diệm đã mang theo cùng với ông ba điều
căn bản thiết yếu để được Cộng Ðồng Quốc Tế kinh nể là:
CHÍNH NGHĨA, CHÍNH
DANH VÀ CHÍNH THỐNG
Những kẻ thù ghét ông Diệm muốn nói gì thì nói, nhưng chúng
không thể chối cãi rằng chỉ có ông Ngô Ðình Diệm mới có uy tín quốc tế để phá
vỡ huyền thoại Hồ Chí Minh.
Chỉ cần đặt một câu hỏi, một câu hỏi thôi: Sau khi bọn tướng
lãnh của Nam Việt Nam nhận lệnh của quan thầy Mỹ để hạ sát ông Diệm một cách
hèn nhát thì sau đó, miền Nam Việt Nam được lãnh đạo như thế nào và chung cuộc
số phận của miền Nam Việt Nam tự do ra sao???
Phạm Kim Vinh