Chủ trương đổi mới đã giúp Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy
chung của nhân loại và đưa đất nước từ một nền kinh tế nghèo nàn đến một trong
những nước có tăng trưởng kinh tế cao nhất châu Á. Tiến trình hội nhập được cụ
thể hóa qua việc Việt Nam trở nên thành viên của khối ASEAN, tham gia APEC, gia
nhập WTO. Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia,
tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và thu hút đầu tư của nhiều tập đoàn nước
ngoài. Xã hội ngày càng trở nên năng động, sáng tạo và nhìn chung có vẻ giàu có
hơn. Nhưng tình hình gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang mất định hướng,
thiếu tính bền vững và nhân bản, vì đổi mới kinh tế không song hành đổi mới
chính trị, cũng như tăng trưởng kinh tế không nối kết với phát triển xã hội và phát
triển con người toàn diện.
1. Nền kinh tế
Việt Nam
Sau gần hai thập niên đạt tăng trưởng kinh tế cao, Việt
Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp nhất, nhưng tình trạng mấy năm
gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm
trọng, tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân và tương lai của
đất nước. Biểu hiện rõ nhất là quản lý kinh tế yếu kém, các tập đoàn Nhà nước
thua lỗ nặng, doanh nghiệp phá sản càng nhiều ngân hàng lãi càng lớn, lạm phát
tăng cao, chênh lệch giàu nghèo nới rộng, chất lượng cuộc sống của đại đa số
dân chúng giảm sút, nhiều người rơi trở lại tình trạng nghèo trước đây…
Phải chăng mô hình kinh tế hiện tại đang làm giàu cho nhóm đặc lợi hơn là cho
toàn dân?
Định hướng kinh tế lấy quốc doanh làm chủ đạo đã tạo ra độc
quyền và lạm quyền, làm méo mó sự vận hành cần có của nền kinh tế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế nhưng lại nhận nhiều
đặc quyền đặc lợi, gây bất công và kìm hãm sự phát triển của khối tư nhân. Nợ
nước ngoài và thâm thủng mậu dịch đã và đang gia tăng khiến nền kinh tế bị suy
yếu và lệ thuộc. Lạm phát gia tăng cũng làm tăng đói nghèo, gây khó khăn hơn
cho cuộc sống của người dân và cả các doanh nghiệp. Đình công tiếp tục tăng cao
chứng tỏ quyền lợi của công nhân chưa được bảo vệ thỏa đáng. Một số chủ trương
không hợp lòng dân mà vẫn được Nhà nước tiến hành như vụ khai thác bô-xit Tây
Nguyên hoặc dự án xây nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận.
2. Luật đất đai
Luật đất đai hiện hành, vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn
trọng Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Đó là nguyên nhân của khoảng 80% các
khiếu kiện trong nước. Các vụ khiếu kiện này đã đi từ khiếu nại cá nhân đến
khiếu kiện tập thể; từ khiếu kiện bằng đơn từ đến tập họp phản đối và nay là
dùng vũ khí chống lại việc thu hồi đất.
Luật đất đai qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng
do Nhà nước quản lý đã làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất và chẳng có
quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà tổ tiên”. Trên thực tế, sở hữu
toàn dân không phải là phương thức quản lý đất đai tốt nhất, còn việc Nhà nước
làm chủ sở hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của chính quyền các cấp trong
việc quy hoạch và thu hồi đất cho các dự án, tước mất quyền căn bản của người
dân.
Vấn đề gây bức xúc nhiều nhất trong việc thu hồi đất là giá
đền bù. Muốn giải quyết tranh chấp về giá đền bù giữa người bị thu hồi đất và
cơ quan chức năng hoặc các nhà đầu tư, thì phải làm sao để người bị thu hồi đất
được đền bù ngang giá với tài sản của họ bị trưng dụng và cuộc sống của họ phải
tốt đẹp ngang hay hơn trước khi bị trưng dụng. Vì giá đất tăng gấp bội sau khi
quy hoạch, nên người bị thu hồi đất cần được chia phần sự chênh lệch giá cả này
bằng nhiều cách khác nhau. Điều cần thiết là nên cấp tốc sửa đổi Luật đất đai
để người dân được quyền sở hữu đất và hạn chế tối đa quyền thu hồi đất của các
cấp chính quyền.
3. Môi trường xã hội
Xã hội Việt Nam đang bộc lộ nhiều hiện tượng rất đáng
quan ngại. Nổi bật nhất vẫn là hai tật xấu đã được Hội đồng Giám mục
Việt Nam cảnh báo từ năm 2008, đó là gian dối và bạo lực. Chúng không
những phô bày nơi đường phố, trên thương trường và các phương tiện thông
tin đại chúng, mà còn xâm nhập vào công sở và học đường. Dư luận đang bức
xúc vì hiện tượng lạ lùng là tại một số nơi, cơ quan công quyền lại sử dụng bạo
lực phi pháp để giải quyết các khiếu kiện dân sự.
Bên cạnh những tệ nạn đang tác hại xã hội Việt Nam hôm
nay, nhiều người âu lo vì khuynh hướng sống hưởng thụ, chụp giựt, coi
trọng đồng tiền, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại… Hiện tượng này chứng
tỏ tình trạng thiếu vắng các giá trị đạo đức nền tảng làm chuẩn
mực cho đời sống xã hội, vì vậy một số người đã cảnh báo về một xã
hội lệch chuẩn hay phi chuẩn.
Tham nhũng đã được coi là đại họa của quốc gia, ngày
càng tinh vi và nghiêm trọng hơn, nhưng cho đến nay chưa một vụ án nào
xứng tầm được đưa ra xét xử để răn đe, làm giảm sút niềm tin của
người dân nơi công quyền.
Các vụ khiếu kiện, chủ yếu liên quan đến đất đai,
trong đó có đất tôn giáo, vẫn tiếp diễn phức tạp và ngày càng trầm
trọng, gây bất an và căng thẳng xã hội. Vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phòng, và
Văn Giang, Hưng Yên, gây xúc động mạnh mẽ trên tất cả những người Việt Nam có
tâm huyết, buộc Nhà nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề, mà cốt yếu là
sửa đổi Luật đất đai về mặt hạn điền, thời hạn sử dụng đất và giá đền bù…, nếu
chưa đi đến chỗ nhìn nhận quyền tư hữu chính đáng của công dân.
Một yêu cầu cấp bách khác là cần thay đổi lề lối làm việc
cửa quyền, không minh bạch và thiếu chuyên môn của cán bộ. Biểu hiện rõ rệt
nhất ở sự áp đặt của Nhà nước về quan điểm và cách sống trong xã hội, đó là sự
phân biệt đối xử trong chính sách công giữa các cá nhân làm việc cho Nhà nước
với các doanh nhân và người lao động tự do, giữa người dân thành thị và người
nhập cư ngoại tỉnh.
4. Lĩnh vực
pháp luật
Hiến pháp và pháp luật của mỗi quốc gia phản ánh tính
đặc thù và cá biệt theo truyền thống văn hóa dân tộc mình, nhưng cũng
không vì thế mà bất chấp những chuẩn mực pháp lý quốc tế. Việt Nam có một hệ
thống pháp luật đồ sộ, nhưng không hiệu quả từ lập pháp đến hành pháp, vì thiếu
sự công khai, minh bạch, và nhất là thiếu sự độc lập về tư pháp.
Việc áp dụng luật pháp chưa nghiêm minh và tùy tiện, nhất là
ở cấp địa phương, đã dẫn đến những oan sai và đôi khi đẩy người dân đến bước
đường cùng. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định các thủ tục bắt người; vậy mà
trong một số trường hợp, vẫn có các công dân bị bắt sai trái với các quy định
của bộ luật ấy, cũng như với các tuyên ngôn và công ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia.
Việc giam giữ người không qua xét xử được che đậy dưới từ
ngữ “đưa vào cơ sở giáo dục” có thời hạn và áp dụng cho những người bày tỏ sự
bất đồng chính kiến là một hình thức vi phạm quyền cơ bản của con người. Hình
thức “giáo dục” này thực ra là một biện pháp mà thực dân Pháp sử dụng ở nước
ta, sau đó được lập lại bằng Nghị quyết 49/NQ-TVQH ngày 20/6/1961 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội và đã là cơ sở pháp lý cho việc tập trung cải tạo các công
chức và quân nhân chính quyền Miền Nam cũ. Sau này có một chuyển biến tốt đẹp
về biện pháp này khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành năm 1989 không
sử dụng nó nữa. Nhưng với Pháp lệnh năm 1995, nó lại được tái lập dưới cái tên
hiện nay và được Pháp lệnh năm 2002 nối tiếp. Hy vọng trong lần ban hành tới về
xử lý vi phạm hành chính, kiểu “giáo dục” ấy sẽ được bãi bỏ.
Căn bệnh trầm kha trong quản lý và điều hành của các cấp
chính quyền chỉ được giải quyết khi Việt Nam xây dựng một Nhà nước pháp quyền
thực sự và hình thành một xã hội công dân năng động. Bất chấp những khó khăn
hiện tại, đây là một xu thế không thể đảo ngược.
5. Biên cương, hải
đảo và chủ quyền quốc gia
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Biển Đông đã
một vài lần nổi sóng. Nhưng trong những năm gần đây, sự căng thẳng đã lên đến
mức độ nguy hiểm. Nhà cầm quyền Trung Quốc một mặt dùng lời lẽ hoa mỹ, với
thông điệp rất êm tai, nhưng mặt khác, các hành động của họ về chủ quyền trên
Biển Đông ngày càng phản ánh rõ rệt chủ trương Đại Hán.
Trong khi đó, bên Việt Nam, phản ứng của Nhà nước xem
ra quá yếu ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù nghịch lấn tới. Khó hiểu
hơn nữa là việc chính quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và các cá nhân yêu
nước phản đối hành động xâm lược trắng trợn. Thái độ lập lờ, thiếu nhất quán
của các nhà lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh thổ vùng biên giới và bảo vệ
chủ quyền ở Biển Đông đang gây bất bình trong dư luận. Nhiều nhân sĩ và các
nhà trí thức tâm huyết đã lên tiếng cảnh báo những nguy cơ về an ninh
quốc gia do một số dự án cho nước ngoài khai thác bô-xít và thuê đất,
thuê rừng. Mặt khác, các thông tin về lĩnh vực này không đầy đủ, chậm
chạp và thiếu công khai. Điều trước mắt đã xảy ra là “lao động phổ thông” nước
ngoài ồ ạt vào Việt Nam để thực hiện các dự án trên đang gây bất ổn cho xã hội
hiện tại và về lâu dài.
6. Môi trường
sinh thái
Theo dự báo của các cơ quan chuyên môn, Việt Nam sẽ là một
trong bốn nước phải gánh chịu hậu quả nghiệt ngã nhất của biến đổi khí hậu.
Nguyên nhân một phần do tác động của biến đối khí hậu toàn cầu, nhưng
một phần khác do chúng ta thiếu quan tâm đến môi trường sinh thái và tính bền
vững trong phát triển.
Điều đáng quan ngại nhất là chúng ta vụng về và vội vàng
trong khai thác tài nguyên. Những năm gần đây Nhà nước đã cho nước ngoài đầu tư
nhiều dự án có nguy cơ hủy hoại môi trường, thay đổi hệ sinh thái và làm biến
đổi khí hậu: khai thác bô-xit tại Tây nguyên, cho thuê rất nhiều khu rừng đầu
nguồn thuộc 18 tỉnh từ Bắc chí Nam, rất nhiều tỉnh đã khoanh biển và bờ biển
cho các công ty ngoại quốc thuê để xây khách sạn, lập bãi tắm hoặc các dự án
khác, mà không quan tâm đến môi trường sinh thái.
7. Vai trò của Trí
thức
Gần 1000 năm trước, cùng với việc thành lập Quốc Tử
Giám, tổ tiên chúng ta đã nhận thức sâu sắc rằng: “Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh,
nguyên khí suy thì nước yếu mà thấp hèn” (Bia Văn Miếu). Điều này
vẫn luôn đúng và càng đúng hơn cho kỷ nguyên chất xám, thời đại của
nền kinh tế tri thức hôm nay.
Bỏ ra ngoài hiện tượng gia tăng đột biến số lượng
các tiến sĩ mà chất lượng còn đáng nghi ngại, Việt Nam còn khá
nhiều hiền tài đích thực, những trí thức thực tài và có tâm huyết với
nước, với dân. Chỉ tiếc rằng vai trò của họ chưa được coi trọng, có
khi còn bị gạt ra bên lề hoặc bị kỳ thị, mà nguyên nhân, trong nhiều
trường hợp, chỉ là do sự khác biệt về quan điểm đánh giá hiện thực
xã hội hoặc về tầm nhìn tương lai của Dân tộc. Phải chăng cơ chế Nhà
nước bất cập và chưa đủ mở rộng để thu hút người tài, cũng như chưa cải tổ cho
phù hợp với đòi hỏi của xã hội tân tiến? Bao giờ vai trò của xã hội dân sự được
nhìn nhận và thực sự có cơ hội tích cực góp phần xây dựng đất nước?
8. Giáo dục
và Y tế
Tương lai của Dân tộc tùy thuộc phần lớn vào giáo
dục. Không thể phủ nhận rằng nền giáo dục quốc gia đã sản sinh một
số nhân tài và góp phần vào việc phát triển Đất nước. Nhưng nhìn
chung, trong mấy thập niên qua, nền giáo dục của chúng ta có quá nhiều
bất cập về nội dung, phương pháp dạy và học… Việt Nam đã có nhiều nỗ
lực “cải cách giáo dục” nhưng không đi đến những đột phá thực chất.
Vì sao? Phải đau đớn mà nói rằng vì chúng ta thiếu hẳn một triết lý giáo
dục mang tính nền tảng và chiến lược lâu dài.
Hậu quả thê thảm của thực trạng trên là những gì chúng ta
đang nhìn thấy trước mắt: Gia tăng các tệ nạn khủng khiếp trong học đường, tội
phạm tuổi học sinh sinh viên ngày càng nhiều, gian dối trong thi cử trở
thành bình thường, bằng cấp giả hay nguy hiểm hơn nữa, bằng cấp thật mà kiến
thức giả. Kết quả cay đắng là Đất nước có nguy cơ bị tụt hậu về nhiều phương
diện.
Nhờ áp dụng các công nghệ mới, y tế Việt Nam trong thời gian
qua đã đạt được một số thành tựu trong việc khám chữa bệnh và y tế dự phòng.
Nhân viên y tế ngày càng được đào tạo bài bản và có chuyên môn cao hơn. Nhưng
do hệ quả của nền giáo dục nói trên, cũng như khuynh hướng tập trung vào
sức khỏe thể chất và thiếu định hướng y tế toàn diện, nên hệ thống y tế đang bị
sa lầy. Bên cạnh tình trạng quá tải trầm trọng tại các bệnh viện Trung ương và
việc tăng viện phí ảnh hưởng mạnh tới người nghèo, dư luận nói nhiều đến sự vô
cảm, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của nhân viên y tế…
Nhà nước đã kêu gọi “xã hội hóa” giáo dục và y tế, thiết
tưởng nên tạo điều kiện để các tôn giáo trong nước được tham gia trực tiếp vào
hai lĩnh vực này.
9. Lĩnh
vực tôn giáo
Trong thời gian qua, nhà cầm quyền đã tạo cơ hội thuận tiện
cho các sinh hoạt tôn giáo, hầu hết các cơ sở tôn giáo bị tàn phá trong thời
chiến tranh đã được trùng tu, nhiều cơ sở mới đã và đang được xây dựng. Tuy
nhiên, qui định pháp luật liên quan đến các tôn giáo vẫn còn nhiều bất
cập và chưa đáp ứng được nguyện vọng của các tín đồ, cụ thể nhất
là về tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo. Điểm mấu chốt là
các tôn giáo đã được nhìn nhận, nhưng lại chưa có tư cách pháp nhân,
nên không thể thực thi và bảo vệ các quyền hiến định của mình, như
các tổ chức xã hội và nghề nghiệp khác.
Hiện nay, Nhà nước dự định ban hành một Nghị định
“Quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Pháp lệnh
Tín ngưỡng tôn giáo”, thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ – CP ngày
01-03-2005. Thật đáng hoan nghênh nếu văn bản này được soạn thảo trên
tinh thần đổi mới, thực sự cầu thị để tạo thuận lợi cho tín đồ các
tôn giáo được tự do hoạt động, góp phần vào việc phục vụ đồng bào
và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng một số người đang băn khoăn vì sợ văn bản này
lại là một bước thụt lùi, so với Nghị định nêu trên. Câu hỏi nền tảng
là bao giờ các công dân có tôn giáo được đối xử bình đẳng với các công dân
khác, theo Hiến pháp và Dân luật, mà không cần đến một Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn
giáo nữa?
* * *
Những nhận định trên đây phát xuất từ niềm tin Kitô giáo và
trách nhiệm công dân với ước nguyện góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây
dựng một đất nước phát triển vững bền, dân chủ và nhân ái. Trong vấn đề này,
huấn từ của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, ngày 27-06-2009, với các Giám mục
Việt Nam vẫn là định hướng căn bản của Ủy ban Công lý và Hòa bình: “Giáo Hội
không hề muốn thay thế Chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối
thoại và hợp tác tôn trọng nhau, Giáo Hội có thể góp phần mình vào đời sống của
đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân”.
Ngày 15 tháng 5 năm 2012,
kỷ niệm 121 năm Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự)
ỦY BAN CÔNG LÝ & HÒA BÌNH / HĐGMVN
Nguồn: conglyvahoabinh.org