VỀ BỐN LỀ LUẬT
Peter Seewald: Giáo hội đã lập ra bốn
lề luật. Những lề luật này đặt nền tảng trật tự cho việc tổ chức cuộc sống
trong thế giới. Các luật đó: thứ nhất là luật thiên nhiên; thứ hai là luật dục
vọng; thứ ba là luật giao ước cũ qua Mai-sen; thứ bốn là luật giao ước mới qua đức
Giê-su Ki-tô. Tóm tắt của tôi như thế có đúng không?
Ratzinger: Trước hết, phải nói các lề luật đó không có cùng một cấp độ
ngang nhau. Luật thiên nhiên cho biết chính thiên nhiên cũng có một
sứ điệp luân lý. Công cuộc tạo dựng còn mang một nội dung tinh thần, và nội
dung này không chỉ mang tính cơ giới toán học. Sứ điệp luân lý là chiều kích
nâng khoa học tự nhiên lên trong các luật
thiên nhiên. Nhưng không phải chỉ có tinh thần, không phải chỉ có „luật
thiên nhiên“ trong cuộc tạo dựng. Tạo dựng tiềm ẩn trong nó một trật tự, và nó
cũng chỉ cho ta thấy trật tự đó. Qua trật tự này, ta đọc được suy nghĩ của
Thiên Chúa và hiểu được mình phải sống ra sao.
Đó là điều đặc biệt
thánh Tô-ma ở Aquino đã diễn tả và kiện toàn?
Vâng. Tô-ma là tổng hợp và kết quả của những điều trên.
Điểm ba: luật của Cựu Ước. Cả luật này cũng có nhiều
tầng ý nghĩa. Căn bản của luật này là mười giới răn ở núi Si-nai. Thêm vào đó,
cả 5 sách của Mai-sen cũng được gọi là „luật“. Các sách này là bộ luật của
Is-ra-en. Chúng đề ra những quy tắc sống, những lề lối cầu nguyện và những quy
định đạo đức phải theo cho dân này. Phao-lô đã xét kỹ các luật đó, và nhận ra
rằng luật Mai-sen đã là một quyền lực thật sự. Luật này vẫn còn giá trị cho dân
Do-thái, và trên nhiều bình diện, cho cả chúng ta nữa, chúng ta sẽ bàn thêm
chuyện này sau. Nhưng Phao-lô đồng thời cho hay, luật đó hoàn toàn không thể
giải phóng được con người. Lí do: Luật càng đòi hỏi mạnh bao nhiêu thì bản năng
chống lại nó càng lớn bấy nhiêu.
Chính đức Giê-su Ki-tô, theo Phao-lô, là kẻ đã giải phóng lề
luật, đã đưa tự do đức tin và tình yêu thay thế lề luật. Tiếp nối ý của thánh
Phao-lô, Tô-ma ở Aquino đã nói tới một luật gọi là luật đức
Ki-tô, và luật này có một bản chất hoàn toàn khác. Thánh Tô-ma nói, luật
mới, luật đức Ki-tô, là Thánh Thần, nghĩa là đó là một sức mạnh thúc đẩy ta từ
bên trong, và ta không hoàn toàn bị lệ thuộc bởi bên ngoài.
Như vậy chúng ta có tất cả bốn tầng khác nhau: thứ nhất là
sứ điệp của tạo dựng. Thứ hai là khuynh hướng đối nghịch của con người trong
lịch sử, muốn chống lại Thiên Chúa và muốn tạo cho mình một thế giới riêng. Thứ
ba là tiếng nói Thiên Chúa trong Cựu Ước, Cựu Ước đề ra cho con người một con
đường, nhưng con người chống lại con đường đó và xem ra họ bất lực trong việc
chống đó. Luật giao ước cũ tạm thời vẫn còn, nó mở ra cánh cửa vượt qua nó. Và
cuối cùng thứ tư là đức Ki-tô, Ngài đã đến trong ta không qua các lề luật bề
ngoài, và đã mở ra một hướng nội tâm cho cuộc đời chúng ta.
Nhưng câu này của đức
Giê-su làm cho tôi thấy bối rối: „Đừng nghĩ rằng tôi đến để phá lề luật và các
tiên tri. Tôi đến, không phải để phá, mà để làm cho trọn. Amen, tôi cũng muốn
nói điều này: Cho tới khi trời đất qua đi, một nét chữ nhỏ nhất trong luật cũng
không qua đi, cho tới khi tất thảy mọi sự đã xảy ra».
Đức Ki-tô đến không như một kẻ phá luật. Ngài không đến để
bãi bỏ luật hay biến nó thành ra vô nghĩa. Phao-lô cũng hành động như thế, cả
cho dù một số người theo quan điểm của ngài nhận thấy có điều khó hiểu trong
câu nói của đức Giê-su được ghi lại bởi Mat-thêu trên. Đức Giê-su nói, toàn bộ
luật cũ có vai trò sư phạm rất quan trọng. Và Ngài đến để làm trọn nó. Điều này
cũng có nghĩa là để nâng nó lên một tầm cao hơn. Ngài làm trọn nó qua cuộc khổ nạn,
qua cuộc sống và sứ điệp của Ngài. Và nhờ vậy, toàn bộ luật đó giờ đây mới có
được ý nghĩa. Tất cả những gì luật cũ gói gém và muốn nói lên, đã được thực
hiện nơi con người đức Giê-su.
Đó là lý do tại sao chúng ta giờ đây chẳng cần phải thực thi
từng mớ chi tiết của luật cũ nữa. Sống cộng đoàn với đức Ki-tô có nghĩa là
chúng ta đang ở nơi luật đã được nên trọn, nơi luật có chỗ đứng đúng của nó,
nơi nó đã được „nâng lên“, nghĩa là nơi nó được bảo tồn và đồng thời cũng được
biến thể.
Có biết bao nhiêu thư
viện chứa đầy những bộ luật quy định cách sống chung và cách hành xử cho con
người trong các quốc gia. Nhưng ngược lại, đức Giê-su muốn tóm tắt những luật
đó trong vài câu dễ hiểu và có thể áp dụng cho mọi người trên trái
đất, Ngài muốn có một bộ luật chính yếu cho thế giới.
Khi có kẻ hỏi: Thưa
Thầy, điều luật nào quan trọng nhất, Ngài trả lời: „Ngươi nên yêu Thiên Chúa
ngươi hết lòng, hết tâm hồn và với hết mọi ý nghĩ. Đó là điều luật thứ nhất và
quan trọng nhất. Điều thứ hai cũng quan trọng không kém: Ngươi nên yêu tha nhân
như chính ngươi“. Và Ngài còn nói thêm, như thể để cho mọi người có thể nắm
bắt: „Hai điều luật đó là toàn bộ lề luật và các tiên tri“.
Quả thực đó là bước đột phá lớn, là tổng hợp quan trọng mà
đức Giê-su đã mang tới. Ngài giúp ta vượt qua mọi góc độ và chi tiết để nhìn
vào tổng thể: tất cả mọi thứ đều nằm sẵn trong hai điều răn đó. Thiên Chúa và
tha nhân gắn liền với nhau. Như vậy, đức Giê-su đã đơn giản hoá vấn đề một cách
tuyệt diệu, đây không phải là Ngài coi nhẹ hay tầm thường hoá, nhưng là cơ bản
hóa vấn đề. Ngài đưa ra ánh sáng tâm điểm của vấn đề, tất cả mọi chuyện đều đặt
nền trên đó, đều xoay quanh nó, không có nó là không được, như Phao-lô đã nói.
Nếu không có nó như là giới răn nền tảng, thì mọi chuyện chúng ta nói đều là
phèng la inh ỏi mà chẳng thực tế. Mọi hành vi sùng mộ và mọi thứ sinh hoạt sẽ
là trống không, nếu trong chúng không có hồn tình yêu. Chúng không giúp ta đụng
được với Chúa và cũng chẳng giúp được gì cho tha nhân. Như vậy thì việc tóm kết
và đơn giản hoá đó quả là một đột phá nền tảng, nó chỉ ra sự đơn giản của Thiên
Chúa và đồng thời cũng cho thấy nét đẹp và cao cả trong đòi hỏi của Ngài.
Ta hẳn biết rằng, trong Is-ra-en xưa, luật pháp và quy chế
luân lý quốc gia đều hoà chung làm một với lề luật phụng tự. Qua biến cố đức
Giê-su, những thứ đó đã được tách ra. Tôn giáo có thể nói giờ đây nhận được bản
chất riêng của nó. Tôn giáo vẫn là hồn cho quốc gia và luật pháp quốc gia, và
nó vẫn đề ra mực thước đạo đức cho quốc gia, nhưng luật pháp quốc gia giờ đây
không còn là một với những gì đạo đức hay đức tin dạy.
Với cái nhìn đó, các quốc gia càng ngày càng phải tạo ra cho
mình những quy định và tiêu chuẩn pháp lý riêng. Nhưng những cái đó sẽ trống
rỗng, nếu chúng không có hồn, và nếu con người từ thâm tâm không nhận ra
được yêu cầu nền tảng của cuộc sống, và từ đó biến những quy định hành xử có
tính cách thuần bề ngoài đó trở thành một cuộc chung sống hài hoà, công bình.
Có phải đó là điều mà
ngài đã có lần phát biểu: luật thiên nhiên đúng nghĩa là một luật đạo đức?
Đúng. Như đã nói, thiên nhiên không những mang trong mình
những luật diễn biến, như khoa học tự nhiên nghiên cứu, mà còn cả một sứ điệp
sâu xa nữa. Sứ điệp này soi đường dẫn lối ta. Và khi Giáo hội nói tới luật
thiên nhiên, thì đây không phải là những luật của khoa học tự nhiên, mà đó là
bảng chỉ đường nội tâm mà Tạo hoá đã bật sáng trong ta.
MƯỜI GIỚI RĂN
Trong sa mạc Si-nai,
Mai-sen vẽ một đường ranh quanh núi Ho-rép. Không ai được bước qua ranh đó,
ngoài một mình ông. Vào ngày thứ ba, sấm chớp bắt đầu nổi lên, mây vần vũ
bao phủ lấy ngọn núi, kèn loa vang dội. Cả ngọn núi dậy khói, toả lửa và động
đất, và chỉ có Mai-sen leo lên đỉnh để nhận mười giới răn, luật thiên chúa.
Mai-sen viết tất cả những lời của Thiên Chúa vào Sách Giao ước.
Huyền thoại được viết
lại như thế. Đối với Giáo hội, mười giới răn nói lên nỗi lo lắng của Thiên Chúa
đối với con người, các giới răn hướng dẫn họ bước vào một cuộc sống tốt đẹp.
Tôi muốn hỏi: Có thật các giới luật đó đã được Chúa hiện ra trao cho Mai-sen
trên núi Si-nai? Đó là những tảng đá, có phải trên đó chính „tay Chúa đã
viết ra“, như vẫn được truyền tụng không?
Có lẽ phải giải thích rõ hơn một chút về chữ „huyền thoại“.
Ngôn ngữ diễn tả ở đây rõ ràng là ngôn ngữ hình ảnh. Ngôn ngữ đó nói lên những
điều khó có thể diễn tả. Nhưng việc những sứ điệp đó được thông báo qua biểu
tượng, không có nghĩa là chúng chỉ là một cơn mơ, một truyền thuyết hay là một
thần thoại.
Hình ảnh ở đây nói lên một biến cố có thật, đó là biến cố
Thiên Chúa đi vào lịch sử, biến cố gặp gỡ giữa Ngài và dân Is-ra-en – và xuyên
qua dân này gặp gỡ nhân loại. Hình ảnh này được thông truyền qua một người,
người đó sống gần Chúa, thật sự muốn lắng nghe Chúa và, như Kinh Thánh nói, có
thể nói chuyện với Ngài như một người bạn, và từ tình bạn đó đã trở thành kẻ
môi giới, và đã có thể chuyển tiếp sứ điệp của Ngài. Như vậy, chúng ta gặp ở
đây một biến cố trung tâm và biến cố này đã được diễn đạt bằng hình ảnh thị
kiến.
Nhưng làm sao biết
được rằng các giới răn đó thật sự đến từ Thiên Chúa?
Ngày nay ta biết rằng chuyện mười giới răn, như đã được
truyền lại trong các sách Mai-sen, có dây mơ rễ má với lịch sử của các dân tộc
lân cận. Những chuyện nói lên việc vật lộn với lịch sử như thế cũng có trong
vùng Assiri. Tuy nhiên, việc có một giới luật dưới hình thức đó và được
viết ra bằng chữ như thế thì quả đã vượt ra ngoài mọi nguồn ảnh hưởng hỗ tương.
Nó đã được một người gần gũi với Chúa viết ra dưới một dạng hình mà ta nhận
biết thực sự là lời của Chúa. Như là bạn thân tình, Mai-sen đã nhận ra được ý
Thiên Chúa, ý này cho tới lúc đó chỉ xuất hiện từng mảng rời rạc và đây đó
trong nhiều nguồn khác nhau. Và Mai-sen đã kết hợp chúng và diễn tả ra. Có phải
thật đó là những mảng đá hay không, lại là một chuyện khác. Ta biết, theo như
sách kể, Mai-sen vì tức giận đã đập bể các mảng đó, và cuối cùng đã nhận được
các mảng khác thay thế. Vấn đề quan trọng ở đây là chính thật Thiên Chúa đã tỏ
hiện xuyên qua một người bạn. Vì thế, việc môi giới này là điều vượt ra ngoài
sự tưởng tượng của con người, hay cả vượt ra ngoài sự nhạy cảm của họ đối với
sứ điệp của tạo dựng.
Mười giới răn vẫn mang
giá trị - vô giới hạn - cho ngày nay?
Chúng vẫn giá trị. Chúng ta đã nói tới một giới răn. Giới
răn đó, sau khi gặp đức Ki-tô, có thể nói đã mang một bộ mặt và ý nghĩa
mới : « Ngươi không được tạc tượng hình nào khác ». Giới răn này
trở thành mới ngay khi chính Thiên Chúa tự tỏ hiện qua hình ảnh Ngài. Nghĩa là
tất cả các giới răn cũng đều đang trên đường hình thành, chỉ qua đức Ki-tô
chúng mới nhận được hình thù hoàn chỉnh.
Cả giới răn thánh hoá ngày thứ bảy cũng giữ nguyên giá trị.
Giới răn này có liên hệ với câu chuyện tạo dựng. Nhưng nó đã nhận được một
khung mới, vì giờ đây ngày phục sinh của đức Giê-su trở thành thực sự là ngày
giao ước. Thứ bảy chuyển thành chủ nhật – và mang theo một chiều sâu mới.
Trong ý nghĩa đó, các giới răn chưa hẳn là những lời đã hoàn
chỉnh. Phải qua ánh sáng đức Ki-tô chúng mới có được hình thù quyết định. Tuy
nhiên chúng vẫn có giá trị trong nền tảng.
Mười giới răn đã chẳng
bao giờ bị sửa đổi?
Không. Có hai bản văn, một trong sách Xuất hành và một trong
sách Dân-số. Hai bản có khác nhau đôi chút bề ngoài, nhưng bản chất giống nhau
– và dĩ nhiên con người không có quyền sửa đổi chúng.
Khi Mai-sen từ núi
thánh xuống, thấy dân đang nhảy múa quanh bò vàng, ông giận ném tan các mảng
giới răn. Chỉ có con cháu của chi Lê-vi, chi họ về sau trở thành giai tầng giáo
sĩ, tụ tập chung quanh ông, và như vậy đứng về phe Thiên Chúa. Maisen ra lệnh: „Hãy
đi từ bên này sang bên kia doanh trại, từ cửa này tới cửa kia, và giết hết ngay
cả anh em, bạn bè, người hàng-xóm“.
Câu chuyện mười giới
răn, như thế, đã khởi đi từ một tội chống lại điều răn thứ năm: Chớ giết
người. Lẽ ra Mai-sen phải biết điều đó chứ.
Trước hết, nó khởi đi từ tội chống lại điều răn nền tảng thứ
nhất : Ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Thiên Chúa.Con người chỉ
quân bình, khi họ chấp nhận Thiên Chúa và tôn thờ Ngài. Khi họ bỏ Chúa chạy
theo thần khác, khi họ muốn tự mình làm Chúa và thờ lạy chính mình, lúc đó họ
phản nghịch lại với thân phận mình. Tội nền tảng này đã làm cho bộ mặt dân này
ra dị hợm và khiến họ ăn tươi nuốt sống nhau. Bởi bỏ Chúa là bỏ nguồn sống,
cũng có nghĩa là ra khỏi sự sống.
Câu chuyện trên quả dã man và thật khó hiểu đối với ta.
Nhưng ở đây, ta lại phải nhìn về đức Ki-tô. Ngài hành động ngược lại. Ngài nhận
lấy cái chết cho mình mà không giết hại ai cả. Trong giờ phút lịch sử ở Si-nai,
có thể nói, Mai-sen đã chỉ hoàn thành điều đã xảy ra: chính những người khác đã
đồi truỵ cuộc sống họ. Câu chuyện trên thật sự xẩy ra như thế nào, lại là một
câu hỏi khác. Dân Is-ra-en vẫn còn đó. Câu chuyện muốn nói lên rằng, ai bỏ
Chúa, người đó không những bỏ giao ước, mà còn ra khỏi không gian sự sống, phá
hoại chính sự sống, và như vậy là đã bước vào vùng đất chết.
Giới răn thứ nhất
„Ta là Chúa, Thiên
Chúa ngươi. Ngươi chớ có thần nào khác ngoài Ta“.
Nếu nhìn kỹ, thì cuộc
nhảy múa quanh bò vàng trong lịch sử nhân loại chưa bao giờ dữ dội và say sưa
như trong thời đại ngày nay.
Ngày nay không có những thần linh được minh nhiên tuyên
xưng, nhưng có những quyền lực khiến người ta kính cẩn sấp mình. Tư bản, hay
nói chung của cải, là một trong những quyền lực đó. Hay đam mê quyền lực cũng
thế. Bò vàng xuất hiện dưới nhiều bộ mặt và hiện rất thời sự trong thế giới
phương tây của chúng ta. Hiểm nguy luôn chờ sẵn.
Nhưng còn hơn thế nữa. Càng ngày gương mặt Thiên Chúa càng
bị xoá nhoà. Người ta bảo : Chúa nào thì rồi cũng chỉ là một Chúa đó cả
thôi. Vấn đề là mỗi nền văn hoá có một cách gọi riêng, chứ dù mình có coi Ngài
là một con người hay không, có gọi Ngài là Jupiter, Shiva hay với tên nào đi
nữa, thì tất cả cũng chỉ là một! Và càng ngày, người ta càng chẳng quan tâm gì
tới Chúa nữa. Người ta rời xa Chúa, và chỉ quay nhìn vào những tấm gương phản
chiếu chính họ trong đó.
Ta thấy: Chính khi Chúa bị gạt ra một bên, thì đó là lúc các
chước cám dỗ thờ ngẫu tượng trở nên rất mạnh. Nguy cơ lớn của ta lúc này, là
người ta coi Chúa là dư thừa. Họ bảo, Ngài ở xa quá, và có thờ Ngài thì có lẽ
cũng chẳng lợi lộc gì. Điều chúng ta ít để ý hơn: Khi ta nhổ cây cột trụ làm
nền cho cuộc sống của ta đó đi, lúc đó càng ngày ta sẽ càng trở nên mất cân
bằng và phân rã.
Giới răn thứ hai
„Ngươi chớ làm ô danh
Thiên Chúa!“
Nhưng ta tự hỏi: Nếu
Thiên Chúa lớn như thế, thì sao Ngài lại phải phiền vì một tội nhỏ của tôi như
thế, tội của một chú giun đất nhỏ nhoi?
Không phải vì ta có thể đe doạ Chúa mà Ngài phải trả thù ta.
Song là vì để ta giữ được thăng bằng trong cuộc sống. Chính khi ta làm ô uế
Ngài, làm biến thể bộ mặt Ngài, khiến bộ mặt không còn toả rạng để cho thế gian
nhận ra Ngài, thì lúc đó con người cũng chẳng còn toả rạng nữa.
Martin Buber có lần nói, không có từ nào bị lạm dụng như từ
THIÊN CHÚA. Từ đó bị bôi đen và làm biến thể đến nỗi không còn sử dụng được
nữa. Ông nói tiếp, tôi nghĩ rằng, dù vậy, ta không được tránh hay không nhắc
tới từ đó, nhưng hãy cố gắng kính cẩn vực nó dậy và tạo lại ý nghĩa đúng đắn
cho nó.
Ta chỉ cần nghĩ tới câu „Thiên Chúa ở cùng chúng ta“ được in
trên dây lưng của quân đội Đức trong thời quốc-xã, thì cũng đủ rõ. Tưởng là để
vinh danh Chúa, nhưng thực ra là để lợi dụng cho mục tiêu riêng của họ.Mỗi lạm
dụng danh Chúa, mỗi hành vi làm biến thể bộ mặt của Ngài đều để lại nhiều rác
rưởi và dấu vết có hại kinh khủng.
Nếu không có những lạm dụng danh Chúa đó, ta không thể giải
thích được quyền lực lớn của vô thần, hay của việc chối từ hoặc vô tâm đối với
Thiên Chúa. Gương mặt Ngài đã bị bóp méo đến đỗi người ta không còn dám nhìn. Xem
đó, ta thấy việc lỗi phạm điều răn này có thể mang lại những hậu quả ghê gớm
như thế nào.
Giới răn thứ ba
„Hãy nhớ thánh hoá
ngày thứ bảy“
Có người rất thích
ngày chủ nhật và muốn tận hưởng nó. Có người lại chẳng muốn nghỉ, dùng nó để đi
chợ, làm việc hay gây ồn ào. Phải chăng là vì người ta không còn hiểu ra ý
nghĩa của ngày này nữa?
Trong trình thuật tạo dựng, ngày thứ bảy là thời gian con
người nghỉ ngơi lo việc Chúa. Đây là dấu chỉ giao ước giữa Chúa với dân Ngài
trong nội dung thập giới. Ý nghĩa nguồn cội của ngày thứ bảy, như thế, là việc
báo trước tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người.
Trong ngày thứ bảy, cả nô lệ cũng không còn là nô lệ nữa, họ
cũng được nghỉ ngơi. Đó là một trong những ý nghĩa chính trong truyền thống
giáo hội. Còn đối với những người tự do thì họ vẫn được tiếp tục làm việc, là
vì việc họ làm không phải là công việc đúng nghĩa. Điểm quan trọng thứ hai, đây
là ngày nghỉ, kết thúc cuộc tạo dựng. Giới răn này cũng có giá trị ngay cả cho
súc vật.
Ngày nay, con người muốn dành toàn quyền cho mình việc sử
dụng thời gian. Thực tế là chúng ta đã quên đi tầm quan trọng của việc để Chúa
đi vào thời gian, và quên rằng thời gian không phải chỉ là vật liệu sử dụng cho
nhu cầu riêng của mình. Vấn đề là ta phải thoát ra khỏi sự ràng buộc của cái
lợi và cái hữu ích - để giải thoát cho chính mình và cho kẻ khác.
Như đã nói, ngày thứ bảy đã mặc lấy hình thức mới trong ngày
phục sinh của đức Ki-tô. Đó là ngày đấng phục sinh hiện ra giữa các môn đồ của
Ngài, là ngày chúng ta quy tụ với Ngài, là ngày Ngày mời gọi chúng ta tới với
Ngài – ngày cầu nguyện và gặp gỡ, Chúa tới và thăm ta và ta thăm Ngài.
Giới răn thứ bốn
„Ngươi phải tôn kính
cha mẹ, để được an khang và sống lâu trên trái đất“
Đây là giới răn duy
nhất gắn liền với một hứa hẹn. Đức Giê-su nhiều lần nói tới tầm quan trọng của
giới răn này.
Tôi muốn kể ở đây một
câu chuyện nhỏ. Đó là chuyến nghỉ hè của chúng tôi, và tôi rất vui khi thấy hai
đứa con vui. Thằng Paul ngồi hàng giờ câu cá măng và các chú tôm nhỏ. Jakob đào
chơi cát. Chúng tôi chèo một chiếc thuyền nhỏ và Paul bơi theo rất lâu bên
cạnh. Nó bỗng nhiên chẳng còn sợ nữa và rất hãnh diện vì mình có thể bơi một
mình. Có lúc tôi ngồi trên mỏm đá xa xa nhìn vợ con, thấy tất cả khoẻ mạnh,
tươi trẻ. Lòng tự nhủ, đây là khởi đầu thời gian đẹp nhất của đời mình,
và tôi không muốn phí phạm nó, tôi nghĩ có được như vầy thì tuyệt quá. Nhưng
bỗng dưng tôi chợt nghĩ tới bố mẹ và ông bà tôi – và cũng nghĩ tới giới răn thứ
bốn này.
Giới răn này quả là đại hiến chương (Magna Charta) của gia
đình. Nó xác định một trật tự nền tảng. Nó nói cho chúng ta hay, tế bào căn bản
của xã hội tính và của xã hội là gia đình, là cha mẹ và con cái. Và chỉ trong
trật tự nền tảng đó ta mới tập được những đức tính căn bản. Chỉ trong đó tương
quan nam nữ và tương quan thế hệ mới nẩy nở đúng.
Một mặt, giới răn chứa đựng nhiệm vụ giáo dục, nghĩa là
hướng dẫn người khác bước vào tự do của họ một cách đúng đắn, để họ nhận ra
những quy luật bên trong, để họ học sống cho ra người. Trong quá trình giáo dục
này, sự vâng lời đóng vai trò phục vụ cho việc tập sử dụng tự do riêng. Và
ngược lại, điều kiện đương nhiên về phía con trẻ là phải chấp nhận sự giáo dục
đó.
Điều răn thứ bốn cũng dạy ta cách đối xử với người già cả, là
những người hết ích lợi và sinh lực. Nó dạy ta phải quý trọng cha mẹ già. Ta
không nên chỉ nghĩ tới cái lợi, nhưng quý trọng các ngài, vì các ngài đã cho ta
sự sống. Qua các ngài, ta cũng quý trọng phẩm giá con người nói chung, những
con người giờ đây không còn tự giúp mình được nữa. Sự kính trọng nền tảng đối
với con người đó, là khía cạnh tối quan trọng của giới răn này. Trong nó cũng
hàm chứa tương lai của chính chúng ta, để sau này ta có thể tin tưởng bước vào
tuổi già.
Giới răn thứ năm
„Ngươi không được
giết người“
Có lẽ hầu như chẳng ai
phản đối điều này. Cái lạ là nó luôn bị lỗi phạm.
Trong con người, rõ ràng có sự hiện diện của một nhận thức
nguồn cội, nó bảo tôi không được phép giết người. Dù tôi quên rằng, chỉ có Chúa
mới có quyền trên con người, thì ít nhất tôi cũng biết người đó có sự sống và
nhân quyền riêng của họ, và nếu tôi giết họ, là tôi phạm tội đối với nhân loại.
Tuy nhiên cái nhìn trên đây càng ngày càng trở nên lu mờ nơi
các trường hợp biên tiếp. Đặc biệt nơi sự sống mới bắt đầu, là lúc nó chưa biết
tự vệ, còn dễ bị lèo lái. Đây là lúc dễ bị nguy cơ cái lợi sai khiến. Người ta
muốn chọn để ai sống, bắt ai chết, vì sợ rằng bào thai đó sẽ hạn chế tự do và
nhân cách của mình. Nơi nào sự sống chưa đủ vóc dáng và trí tuệ để đối phó, nơi
đó ý thức về giới răn thứ bốn dễ mai một.
Trường hợp kết thúc cuộc đời cũng thế. Người ta coi người
bệnh, người đau khổ trở thành phiền hà và nghĩ rằng cái chết có lẽ tốt hơn cho
đương sự. Và đó là cớ để người ta vội vàng trợ tử cho người bệnh.
Và từ đó cứ tùng bước, từng bước một đi tới. Ngày nay, ý
nghĩ nuôi cấy người lại trở nên thịnh hành, như ta đã thấy trong thời gian bất
hạnh vừa qua. Người ta nẩy ra đắn đo, không biết một người không còn ý thức nữa
và không còn khả năng hoàn thành được vai trò xã hội nữa, có phải thật sự còn
là một con người nữa không.
Suy tư từ đó cứ mở tiếp ra. Đặc biệt, trong lãnh vực trợ tử,
ta gặp ngay câu hỏi: Khi nào thì ta có quyền chấm dứt một sự sống, để nó không
phải chịu đau đớn quá đỗi. Xem thế, trong các trường hợp tiếp biên, ý
thức cội nguồn và đạo đức của con người về việc kính trọng sự sống kẻ khác quả
rất dễ bị triệt tiêu. Điều răn thứ năm, nói lên quyền của Chúa trên mạng sống
con người từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, vì thế, lại đáng cho ta tranh luận
hơn bao giờ hết.
Giới răn thứ sáu
„Ngươi chớ làm sự dâm
dục“
Thế giới chúng ta đã
biến việc sở hữu và sử dụng tình dục thành ra một đức tính. Nếu không phải là
kẻ quá mê đắm dục tình, thì thử hỏi: Phải chăng dâm dục thật sự là tội?
Bản văn nguồn của giới răn này trong Cựu Ước có nội dung như
sau: „Ngươi chớ ngoại tình“ (Xh 20,14; Ds 5,18). Như vậy, giới răn này thoạt
tiên có một nghĩa rất nhất định. Nó dạy sự trung thành trong quan hệ vợ chồng,
nó không những bảo vệ tương lai con người, mà còn hội nhập tình dục hôn nhân
vào trong toàn thể cuộc sống làm người, và chỉ qua đó tình dục mới có được phẩm
giá và chiều kích cao cả.
Đó là tâm điểm của giới răn. Hôn nhân không phải là một giao
tiếp tạm bợ, mà là sự kết hợp giữa hai người trong tiếng Vâng, tiếng Vâng này
đồng thời cũng nói lên việc sẵn sàng chấp nhận con cái. Như vậy, hôn nhân là
nơi đích thực để cho tình dục nhận được phẩm giá và cao cả. Chỉ nơi đó tinh
thần mới thành cảm giác và cảm giác mới thành tinh thần. Nơi đây diễn ra cái mà
ta gọi là bản chất của con người. Nó có vai trò như cây cầu nối liền hai điểm
kết thúc của tạo dựng vào nhau và trao cho nhau phẩm giá và nét cao cả.
Nếu giờ đây ta bảo, chỗ của tình dục là hôn nhân, thì đương
nhiên điều đó cũng hàm ý rằng, chỉ trong hôn nhân tình dục mới có được phẩm giá
và sự nhân tính hoá đích thực. Hôn nhân có nghĩa là một kết hợp trong tình yêu
và chung thuỷ; nó bao hàm cả sự chăm sóc lẫn nhau và sự sẵn sàng cho tương lai,
nghĩa là hướng đến nhân loại trong toàn thể.
Hẳn nhiên sức mạnh quá lớn của bản năng tình dục, nhất là
trong một thế giới ngập đầy yếu tố kích dục như hiện nay, đã khiến cho bản chất
hôn nhân bị lu mờ. Tình dục từ lâu đã trở thành hàng hoá có thể mua bán. Nhưng
như thế thì con người đã bị lợi dụng thành kẻ bán dâm, nhân tính họ bị biến
thể, và họ chẳng còn được kính trọng như là một con người nữa. Những kẻ tự biến
mình thành hàng hoá, hay bị ép buộc làm chuyện đó, trước sau sẽ bị khai thác
đến kiệt quệ. Và, lúc này đây, trên nền chợ tình dục kia còn nẩy sinh thêm một
chợ nô lệ mới. Như vậy, chính khi tôi không đặt tình dục vào khuôn tự do trách
nhiệm của đôi bên, không nối nó vào trong cái toàn thể của sự sống, lúc đó con
người đương nhiên trở thành vật mua bán.
Xin Ngài nói lại lần
nữa tâm điểm của điều răn.
Đây là sứ điệp của tạo dựng: Người nam và nữ được tạo nên
cho nhau. Sách Sáng-thế viết: Họ sẽ lìa cha mẹ để hợp với nhau thành một thân
xác. Vậy từ cái nhìn thuần sinh lý, ta có thể nói được rằng, thiên nhiên đã
sáng tạo ra tình dục để duy trì chủng loại. Điều chúng ta thoạt tiên thấy như
chỉ là một sản vật thiên nhiên, như là một thực thể thuần sinh lý, đã trở thành
dạng hình người qua sự chung sống của người nam và người nữ. Đó là một cách con
người mở ra cho nhau. Một cách không những để làm triển nở sự gắn bó và chung
thuỷ, mà còn mở ra một không gian để con người có thể khởi đi từ lúc thụ thai
tiến lên thành người. Không gian này là chỗ đặc biệt nẩy sinh cuộc chung sống
đúng đắn của con người. Điều thoạt tiên chỉ là một quy luật sinh lý, một xảo
thuật của thiên nhiên (nếu có thể nói được như vậy), đã trở thành dạng hình
người, trong đó nẩy sinh sự chung thuỷ và gắn bó tình yêu giữa người nam và
người nữ, và từ đó đồng thời hình thành nên một gia đình.
Đó là tâm điểm của giới răn mà tạo dựng muốn nói với ta. Càng
suy nghĩ và sống trọn giới răn đó, ta càng thấy rõ các loại tình dục khác không
đưa ta tới độ cao chân thực của ơn gọi làm người. Chúng không đạt tới cấp độ
muốn có và nên có của tình dục con người.
Chúng ta sẽ nói thêm
về tình dục ở chương sau. Nhưng thập giới xem ra phản lại quy luật thiên nhiên.
Chúng ta khó mà tuân giữ những điều đó được, vì chúng thường đi ngược lại bản
năng con người.
Đúng, khó tuân giữ. Nhưng điều răn thứ sáu hàm chứa trong nó
chính sứ điệp của thiên nhiên. Thiên nhiên quy định sự hiện diện của hai phái,
để cho giống nòi được tồn tại – đặc biệt cho giống người, vì sau khi lọt lòng
mẹ, con người còn lâu mới toàn thành và còn cần một thời gian chăm sóc dài.
Con người không phải là loài thoát tổ, mà là nằm tổ. Với cái
nhìn thuần sinh lý, thì giống người cần có tình yêu của cha mẹ như là lòng mẹ
mở rộng, để mới có thể vượt qua cấp sinh lý ban đầu, hầu tiến lên thành người
được. Khung cảnh gia đình có thể xem là điều kiện hiện hữu của con người.
Như vậy, chính thiên nhiên ở đây đã mở cho ta thấy bộ mặt
nguồn cội của loài người. Con người cần một gắn bó tiếp tục với nhau. Trong sự
gắn bó đó, thoạt tiên hai người nam nữ hiến thân cho nhau – và rồi hiến thân
cho con cái, để con cái cũng bước được vào quy luật tình yêu, quy luật tự hiến.
Nơi loài nằm tổ, rõ ràng cần có sự chung thuỷ sau khi sinh. Như vậy, sứ điệp
hôn nhân và gia đình hẳn là quy luật của chính tạo dựng và không đi ngược lại
bản chất con người.
Dù vậy, vẫn quả thật
khó mà tuân giữ.
Đúng là trong lãnh vực này, cũng như trong các lãnh vực khác
mà chúng ta đã đề cập, đang có cảnh lội ngược dòng. Có sự thặng dư quyền lực
sinh lý. Ta thấy trong các xã hội tân tiến – và cả trong xã hội của một số thời
kì trước đây, chẳng hạn ở Rô-ma dưới thời vua chúa – có một sự kích dục công
khai, khiến sức mạnh bản năng gia tăng, và vì thế gây khó khăn cho việc kết hợp
hôn nhân.
Hãy trở lại với bốn điều răn đã nói. Ta thấy ở đây có hai
trật tự khác nhau của thiên nhiên. Thiên nhiên một mặt cho hay, việc kết hợp
nam nữ là hành vi thâm sâu nhất, nó rốt cuộc trở thành một hành vi con người,
và mở ra không gian để loài người có thể phát triển. Một sứ điệp khác của thiên
nhiên là chúng ta, trên phương diện nào đó, cũng hướng về sự chung đụng khác
giới, đặc biệt hướng về việc sử dụng tình dục vượt ra ngoài khuôn khổ gia đình.
Đứng từ góc độ đức tin, ta thấy rất rõ sự khác nhau của hai
chiều hướng trên. Một bên nói lên sứ điệp chân thực của tạo dựng. Bên kia phản
ảnh khuynh hướng muốn làm chủ của con người. Do đó, việc tự trói buộc mình vào
hôn nhân luôn là một nỗ lực liên lỉ. Tuy nhiên, ta cũng thấy, ở đâu nỗ lực đó
thành tựu, ở đó có trưởng thành nhân bản và trẻ con có thể học được tương lai. Ở
đâu việc li dị trở thành thường tình, ở đó trẻ con là giới chịu nhiều thiệt hại
nhất. Như vậy, đứng từ phía trẻ con mà nhìn, ta có thêm một lý do minh chứng sự
kết hợp nam nữ, sự chung thuỷ vợ chồng là đúng đắn và thật sự phù hợp cho con
người.
Giới răn thứ bảy
„Ngươi chớ trộm cắp“.
Coi trọng tài sản kẻ
khác là chuyện thường tình. Giới răn có ám chỉ thêm điều gì nữa không?
Bài học của tạo dựng về quy định chung của tài sản không chỉ
là một tư tưởng đẹp, mà nó còn phải được thực hiện. Bài học này xác quyết mỗi
người cần cho mình một số nhu cầu căn bản để sống, và vì thế phải có luật để
bảo vệ tài sản cho từng người. Ở đây, nhà nước phải có những bộ luật để canh
chừng và ngăn chận mọi lạm dụng tư hữu.
Ngay lúc này đây, ta thấy rõ hơn bao giờ hết cảnh con người
đang tự huỷ diệt mình, khi họ chỉ còn biết sống cho của cải, cho đồ vật, khi họ
ngụp lặn trong những thứ đó, và của cải trở thành thượng đế của họ. Chẳng hạn,
ai bị quy luật cổ phần chế ngự hoàn toàn, kẻ đó chẳng còn suy nghĩ được gì
khác. Ta thấy quyền lực của cải đè lên con người nặng như thế nào. Càng có
thêm, ách nô lệ càng nặng, bởi vì họ phải lo giữ của và không ngừng làm tăng
chúng.
Vấn nạn của quyền tư hữu cũng thấy được rõ nét trong tương
quan bất ổn giữa thế giới thứ nhất và thế giới thứ ba. Ở đây, quyền tư hữu đã
đi trệch ra ngoài quy luật chung về tài sản. Phải tìm ra những hình thức pháp lý
để giữ nó thăng bằng hoặc ngay cả đưa nó về lại thế thăng bằng.
Như vậy, đàng sau giới răn đó ta thấy một gánh nặng ghê gớm
của thực tế. Giới răn nói tới việc bảo vệ những gì cần thiết cho cuộc sống cá
nhân (và những thứ đó cũng phải được quý trọng), cũng như trách nhiệm làm sao
sử dụng quyền sở hữu cho đúng, để đừng đi ngược lại sự uỷ thác chung của tạo
dựng và ngược lại tình yêu tha nhân.
Giới răn thứ tám
„Ngươi chớ nói dối“
hay „Ngươi chớ làm chứng dối“.
Có nhiều chuyện tuyệt
hay về nói dối. Nhiều khi chính những lời dối trá nhỏ lại trở hành lớn, đến nỗi
sém làm tiêu tan sự nghiệp các tổng thống của một siêu cường hoặc sém khiến cho
những đảng cầm quyền hay những ông vua truyền thông sụp đổ. Chuyện lạ :
chẳng có chi dấu được dưới ánh sáng mặt trời.
Tôi muốn nói, điều đó cho thấy bản chất con người là yêu sự
thật. Mọi giới răn chung quy đều là giới răn của tình yêu, hoặc là những khai
triển của giới răn tình yêu. Như vậy, tất cả chúng rõ ràng cũng có liên quan
tới sản phẩm chân lý. Khi tôi dấu diếm hoặc làm méo mó sự thật, khi tôi trầm
mình trong dối trá, lúc đó tôi thường làm người khác thiệt hại, và cũng luôn
làm thiệt hại cả chính tôi.
Những dối trá lặt vặt dễ biến thành một thói quen, ở đâu rồi
cũng dùng nói dối cho qua chuyện, dần dần người ta tự trói mình trong dối trá,
và vì thế sống ngược lại với thực tế. Ngoài ra, mỗi lần làm tổn thương phẩm giá
chân lý như thế, là mỗi lần ta không những triệt hạ con người, mà còn lỗi phạm
gia trọng chống lại tình yêu. Là vì khi tôi dấu người khác sự thật, có nghĩa là
tôi khước từ họ một tài sản nền tảng, và dẫn họ vào đường sai trái. Chân lý là
tình yêu, và tình yêu sẽ trở nên dị hợm, khi nó chống lại sự thật.
Giới răn thứ chín và
thứ mười
„Ngươi chớ muốn vợ
người khác“. „Ngươi chớ tham của cải của người khác“.
Hai giới răn gắn liền với nhau đó mang ý nghĩa sâu xa vượt
lên trên cái thực tế và bên ngoài. Chúng cho ta hay, khởi đầu của tội không
phải là chính lúc ta ngoại tình, hay lúc ta chiếm đoạt tài sản kẻ khác một cách
bất công, nhưng tội đã ló dạng ngay từ trong tư tưởng của ta rồi. Một khi tâm
tưởng tôi đã không còn kính trọng kẻ khác, không còn tôn trọng hôn nhân và tài
sản họ, thì việc dừng tay trước hành động cuối cùng cũng chẳng còn ý nghĩa.
Như vậy, tội không chỉ bắt đầu với những hành vi cụ thể bên
ngoài, mà nó đã bắt đầu từ trong vườn ươm của nó, từ trong ý nghĩ ghen tương, ý
nghĩ phủ nhận chính kẻ khác và tài sản của họ. Thiếu trong sạch trong tư tưởng,
cuộc sống sẽ mang hậu quả bất ổn. Hai giới răn trên, như vậy, muốn kêu gọi trực
tiếp tới tâm con người. Bởi vì tâm chính là cội nguồn xuất phát hành động. Chỉ
riêng với lý do đó thôi cũng đủ cho ta phải giữ tâm trong và sáng.
Khi Mai-sen nhận những
tấm đá giới răn giữa sấm sét trên núi, lúc đó cũng là giây phút khởi đầu của cá
nhân tự do. Nhà báo Đức gốc Do-thái Hannes Stein đã lý luận như thế. Kể từ đây,
mỗi cá nhân, dù là chủ hay tớ, đàn ông hay đàn bà, đều mang trách nhiệm trực
tiếp với Chúa về mình và về hành vi mình. Có thể nói, tính cách pháp nhân tự
trị đã hình thành cùng với giao ước trên núi Si-nai. Có liều lĩnh lắm không,
khi bảo rằng nền tảng xã hội tự do dân chủ không phải xuất phát từ Hi-lạp cổ,
mà từ truyền thống do-thái và ki-tô giáo?
Tôi cũng đã đọc sách của Hannes Stein và thấy có những điểm
rất nền tảng. Trên thực tế, tâm điểm của nhân quyền nằm nơi phẩm giá của mỗi cá
nhân, người đó đối diện một mình với Chúa, Chúa nói trực tiếp với họ, và Giao
ước đề cập tới họ như một cá thể. Nhân quyền có nghĩa là mỗi người đều có phẩm
giá ngang nhau, và nhân quyền chính là nền tảng của dân chủ.
Lẽ ra Is-ra-en thoạt tiên không có vua, mà chỉ có những phán
quan dùng luật Chúa mà cai trị. Điều đó có nghĩa là người ta nhắm tới một xã
hội hoàn toàn bình đẳng, một thứ xã hội vô chính phủ theo nghĩa tích cực, trong
đó không ai ngoài chỉ mình Chúa là kẻ trị vì. Và Ngài cai trị thông qua luật
Ngài, lời Ngài và qua các giới răn.
Nhưng loại xã hội đó cuối cùng đã phải thay đổi theo thực
tế, điều này trước đây chúng ta đã nói rồi. Ở đây, dĩ nhiên tôi không dám coi
thường nền dân chủ hi-lạp, nó đã làm nẩy nở đôi điều quan trọng và đã khai sinh
một mô hình thực tế, mà người ta về sau đã có thể noi theo. Nhưng ta cũng phải
biết, là trong nền dân chủ hi-lạp, chỉ có lớp đàn ông tự do mới có quyền bầu
cử, đàn bà và nô lệ không phải là chủ thể của chính trị, nên không được bầu
phiếu. Vì tự do bị hạn chế, nên dân chủ hi-lạp chỉ là mẫu mực của một nền dân
chủ hạn định. Trái lại, lời Kinh Thánh coi mỗi người đều là người và là hình
ảnh của Chúa, và đã trao cho từng người trong họ đầy đủ tư cách chủ thể. Vì
thế, quả thật lời Kinh Thánh đã xây thêm nền tảng cho các thể chế dân chủ.
..................................
Trích từ: Joseph Ratzinger - Biển-đức XVI., „Thiên Chúa
và Trần Thế - Tin và Sống trong thời đại ngày nay. Trao đổi với Peter
Seewald“. Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt Ngữ. Nguyên tác Đức Ngữ: „Gott
und die Welt – Glauben und Leben in unserer Zeit“