Dinh vua Hêrôđê (trái). Ngõ vào mộ Chúa Giêsu (phải)
Trong khi toàn thể nhân loại nói chung và thế giới Kitô giáo
nói riêng đang sửa soạn cử hành lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự phục sinh của
Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa nhập thể, chúng ta thử tìm hiểu thêm về những dấu
tích thánh của Chúa Cứu Thế tại Thánh Địa, nhất là ngọn đồi Golgota, nơi Người
đã chịu đóng đinh và ngôi mộ, nơi xác thánh Người đã được cất giữ trong suốt ba
ngày liền, trước khi Người phục sinh.
Một điều người ta có thể quả quyết được một cách chắc chắn
rằng ngọn đồi Golgota hay cũng được gọi là đồi Can-vê hoặc Núi Sọ và ngôi Vương
cung Thánh đường Mộ-Chúa hiện nay là chính những nơi Chúa Giêsu đã chịu đóng
đinh trên thập giá và rồi được an táng sau đó, cách đây trên dưới 2000 năm.
Đối với con đường thánh giá, tức đoạn đường mà Chúa Giêsu đã
đi qua khi Người phải vác thánh giá tiến về Núi Sọ, thì có khá nhiều tương
truyền khác nhau, nhưng một điều chắc chắn không ai có thể phủ nhận được, đó là
ngôi Vương cung Thánh đường Mộ-Chúa ngày nay chính là nơi Chúa Giêsu đã được an
táng sau khi xác thánh Người được các Môn đệ tháo xuống khỏi thánh giá. Và ngôi
mộ Người hoàn toàn trống rỗng sau đó ba ngày là một minh chứng cho sự sống lại
của Người. Và khi bà Maria Magdalena đến kính viếng mộ Chúa, thì Thiên Thần đã
hiện ra và mời bà nhìn kỹ vào ngôi mộ trống. Chính điều đó cũng cho thấy bà
Maria Magdalena là chứng nhân đầu tiên của việc Chúa đã sống lại. Đó quả là một
vinh dự cao cả được dành cho một người phụ nữ đã luôn tin tưởng và yêu mến Thầy
cực thánh của mình một cách tuyệt đối, là được chọn làm chứng nhân đầu tiên về
sự sống lại của Người.
Bản Phúc Âm theo thánh Gioan đã tường thuật là có hai vị
Thiên Thần mặc áo trắng ngồi trong mộ Chúa, một vị ngồi phía cuối chân và một
vị khác ngồi ở đàng đầu trong ngôi mộ an táng Chúa Giêsu. Sự kiện này nhắc
chúng ta nhớ đến vị trí của hai vị Thiên Thần Cherubin trên Hòm Bia thánh của
Gia-vê, được trao phó cho dân Ít-ra-en trong thời Cựu Ước. Điều này muốn khẳng
định rằng ngôi mộ Chúa Giêsu thực sự là Hòm Bia chân chính và sau cùng của
Thiên Chúa, được trao phó cho Giáo Hội của Người trong Tân Ước, một Giáo Hội
bao gồm mọi dân tộc trên khắp thế giới.
Theo tương truyền và theo dẫn chứng chắc chắn của lịch sử
cũng như của khoa khảo cổ, thì vào thời Chúa Giêsu, những nơi trên đây nằm
ngoài vòng đai thành Giê-ru-sa-lem.
2) Nơi có ngôi Mộ Chúa là một nghĩa địa
Phía sau ngôi mộ Chúa Giêsu ở trong ngôi Nhà Nguyện của Giáo
Hội Chính Thống Syrie, các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều ngôi mộ khác nữa
thuộc thế kỷ thứ nhất. Điều đó chứng minh cho thấy vùng đất nằm bên ngoài vòng
đai thành Giê-ru-sa-lem ấy là nơi xưa kia được sử dụng làm nghĩa địa. Và theo
tương truyền thì một trong các ngôi mộ ấy được coi là mộ của ông Josef
Arimathäa. Ở phía trên ngôi mộ người ta vẫn còn nhìn thấy được những tảng đá
được tạc vào thời hoàng đế Constantin để phân biệt ngôi mộ Chúa Giêsu với những
ngôi mộ khác, mà cho tới nay người đã xác nhận được bảy ngôi mộ khác đã được
chôn cất tại đây.
3) Ngôi mộ Chúa đã từng bị đất vùi lấp
Sau cuộc nổi dậy của Bar Kokba (1) bị thất bại vào năm 135,
hoàng đế Aelius Hadrian đã hạ lệnh phá hủy hoàn toàn thành Giê-ru-sa-lem.
Hadrian hành động tàn ác như thế là nhằm ngăn chặn tất cả mọi mưu toan của
người Do-thái muốn tìm cách chiếm lại thành Giê-ru-sa-lem, và đồng thời xoá tan
tất cả mọi dấu vết Kitô giáo, trong đó có ngôi mộ Chúa và đồi Golgota. Để thực
ý đồ nham hiểm ấy, Hadrian đã truyền lệnh cho chuyên chở đất tới chôn sâu ngôi
mộ và cả đồi Golgota. Giữa trung tâm thành phố, ông xây một con đường chính làm
nơi buôn bán sầm uất với tên Cardo maximus. Những trục giao thông Decumani (2)
cắt ngang con đường chính này. Trum tâm thành phố mới được trải rộng từ Forum
cho tới Capitolium (3). Còn miền thuộc địa mới đã được Hadrian đặt tên là Aelia
Capitolina. Điều đó muốn ám chỉ là ở Giê-ru-sa-lem cũng có một Capitolium để
thờ các vị thần của người Roma là Jupiter, Venus và Juno, v.v…, hoàn toàn giống
như ở Roma vậy.
Đặc biệt, theo các chứng cứ của hai sử gia của Giáo Hội, Đức
GM Eusebius thành Caesarea và thánh Hieronymus, thì toàn vùng thuộc Golgota và
ngôi mộ Chúa, Hadrian còn cho đổ rất nhiều đất, biến thành một ngọn đồi đất
nhân tạo vĩ đại, trên đó ông cho xây một ngôi đền thờ thần ngoại giáo Jupiter
và nữ thần Venus (4). Ngay trên chỗ Chúa bị đóng đinh, Hadrian còn cho dựng một
pho tượng nữ thần Venus vĩ đại bằng đá cẩm thạch.
Thật ra, việc xây dựng những nơi thờ tự các thần ngoại giáo
không gì khác là đền Capitolium. Đây là điều người ta dễ dàng nhận ra được khi
khai quật móng ngôi đền. Theo dẫn chứng của thánh Hieronymus, hoàng đế Hadrian
cho xây tượng nữ thần dâm đãng Venus trên chính ngôi mộ Chúa là cốt ý tục hóa
hoàn toàn các nơi thánh Kitô giáo.
4) Ý đồ gian ác của Hadrian giúp cho kế hoạch của Thiên Chúa
Như đã nói trên, mục đích của Hadrian khi cho chuyên chở đất
từ khắp nơi về chôn vùi đồi Golgota, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh và ngôi mộ
táng xác thánh Chúa, và đắp thành một ngọn đồi đất nhân tạo to cao vĩ đại, với
mục đích là cốt xóa sổ sự hiện diện những dấu tích đáng ghi nhớ nhất của Kitô giáo.
Nhưng chính ý đồ thâm độc của Hadrian lại trở thành một phương tiện bảo tồn hữu
hiệu nhất cho hai nơi thánh địa trên, vì ngọn đồi đất do Hadrian xây cao lên
trên đồi Golgota và ngôi mộ Chúa trong suốt gần hai thế kỷ liền đã bảo toàn
trọn vẹn hai thánh tích trên, chứ không bị các thù địch Kitô giáo phá hại.
Thật vậy, các kẻ thù của Thiên Chúa thường cho rằng họ là
những vị thần linh toàn năng, thế nhưng các ý đồ và các kế hoạch của họ đều
thiển cận và ngắn hạn. Trong suốt hơn 180 năm hai thánh tích nơi Chúa bị đóng
đinh và ngôi mộ an táng xác thánh Chúa bị chôn vùi dưới một ngọn đồi nhân tạo
bằng đất, khiến các Kitô hữu không thể đến kính viếng được, nhưng theo các ngụy
thư thì các Kitô hữu xưa kia vẫn luôn ghi nhận rõ ràng hai thánh tích trên và
luôn gìn giữ các tương truyền. Vào giữa các năm 135 cho tới 326, các Đức Giám
Mục miền Aelia Capitolina đã ra sức bảo trì các nơi thánh ấy.
Năm 313 hoàng đế Constantin đã ban hành ở Milan một chiếu
chỉ thời danh cho phép các Kitô hữu trong toàn đế quốc Roma được tự do sống đạo
của mình. Trong Công Đồng chung do hoàng đế Constantin triệu tập tại Nicäa vào
năm 325, Đức Cha Makarius, Giám Mục Giê-ru-sa-lem lúc bấy giờ đã lên tiếng yêu
cầu hoàng đế nên ra lệnh phá hủy tất cả các đề thờ ngoại giáo và khai quật và
trùng tu lại các di tích thánh Kitô giáo ở Thánh Địa. Theo một số sử liệu, thì
chính thánh nữ Helena, mẹ của hoàng đế Constantin, là người đã đưa ra ý kiến
phải khai quật và trùng tu lại nơi Chúa bị đóng đinh và ngôi mộ nơi Chúa được
an táng. Công việc khai quật được bắt đầu vào năm 326 dưới sự giám sát của Đức
Giám Mục Makarius, và Dracilius, vị thị trưởng lúc bấy giờ, đã cung cấp một nửa
số nhân công cho công trình trên. Trong cuốn „Das Leben des Kaisers Konstantin“
(cuộc đời hoàng đế Constantin), sử gia Eusebius thành Caesarea tường trình một
cách chi tiết công cuộc tôn tạo lại hai thánh tích quan trọng trên của Kitô
giáo là đồi Golgota và ngôi mộ Chúa. Eusebius trình bày một cái nhìn tổng quát
về ngôi đền thờ mới được hoàng đế Constantin cho xây dựng trên chính địa điểm
Chúa chịu chết và sống lại. Eusebius trình bày toàn bộ công trình xây dựng ngôi
đền thờ trong bốn phần được gọi là Anastasis (5), trung tâm Atrium (6),
Triportico (7) và Martyrium (8).
Theo kết quả những lần khai quật của Linh mục Virgilio Corbo
OFM, người ta lại nhận thấy công trình xây dựng phức tạp của hoàng đế
Constantin tại vị trí mộ Chúa gồm năm khối khác nhau:
1. Atrium, tức phần tiền sảnh của Vương cung Thánh đường
được xây theo kiểu đông phương nằm trên trục Cardo Maximus của Aelia Capitolina.
2. Matyrium, tức chính Vương cung Thánh đường gồm năm gian.
3. Triportico, tức hành lang các cột với núi Can-ve.
4. Anastasis, tức phần hình tròn xây bao trùm ngôi mộ Chúa.
5. Patriarchat gồm sân rộng nằm phía tây-bắc.
Trong những lần khai quật sau cùng, người ta lại tìm thấy
phần dưới nền nhà thờ thuộc Giáo Hội Chính Thống còn sót lại dấu tích của Vương
cung Thánh đường được xây dựng thời Constantin.
5) Đền thờ Mộ Chúa được xây dựng trên chính ngôi mộ
Chúa
Đó là một sự thật được nhiều nhân chứng khả tín khẳng định.
Trước hết, thánh Cyrill (9) đã viết là ngài đã hướng dẫn các người tân tòng
chẳng những đi kính viếng Golgota mà cả ngôi mộ Chúa nữa.
Ở đây chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào năm 614 Chosroes II,
hoàng đế của đế quốc Ba Tư hùng mạnh đã xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và đốt phá Đền
thờ Mộ Chúa do Constantin xây dựng, còn Thánh Giá Chúa thì bị chiếm làm chiến
lợi phẩm mang về Ktesiphon, thủ đô của đế quốc. Nhưng sau đó, quân đội Roma đã
chiến thắng đế quốc Ba Tư, và năm 630 Nữ hoàng Helena đã khởi hoàn trở lại
Giê-ru-sa-lem và long trọng cung nghinh Thánh Giá Chúa đã được phục hồi trở lại
nhà thờ Mộ Chúa.
Tiếp đến, những lãnh chúa Hồi giáo xưa kia cũng đã nỗ lực ra
tay bảo vệ các nơi thánh thuộc Kitô giáo tại Giê-ru-sa-lem trước tất cả mọi đe
dọa phá hoại thánh địa. Nhờ thế ngôi Vương cung Thánh đường Kitô giáo đã tiếp
tục tồn tại. Liền sau đó, trong khi Đức Thượng Phụ Zacharias còn bị giam cầm ở
Ba Tư, Đền thờ đã được Linh mục Modestus, Tu viện Trưởng Tu Viện Theodosius,
cho trùng tu lại. Vào năm 638 Đức Thượng Phụ Sophronius bó buộc phải cho phép
người Hồi Giáo Ả-rập tiến vào Giê-ru-sa-lem. Khi quốc vương Hồi Giáo Omar Ibn
Khattab có mặt tại Giê-ru-sa-lem, ông đã công khai long trọng hứa tôn trọng
„Status quo“ của Giê-ru-sa-lem, nghĩa là ông tôn trọng tình trạng hiện tại của
thánh địa nói chung và của Giê-ru-sa-lem nói riêng.
Nhưng vào năm 906, để phản đối cuộc tranh chấp bằng quân sự
của quân Bysantin do tướng Nikephoros Phokas lãnh đạo, người Hồi Giáo đã đốt
phá phần đền thờ hình tròn bao trùm Mộ Chúa. Và vào năm 1009, Fatimidenkalf
Al-hakim, quốc vương Hồi Giáo, đã ra lệnh phá hủy toàn bộ ngôi Vương cung Thánh
Đường Mộ Chúa. Ngôi mộ Chúa Giêsu hoàn toàn bị san bằng. Nhưng đến năm 1031,
các Kitô hữu được phép trùng tu lại ngôi mộ Chúa. Năm 1042 hoàng đế Constantin
Monmachus khởi công xây dựng lại khu vực Golgota và Mộ Chúa, và vào năm 1048
toàn bộ công trình trùng tu được hoàn thành.
Vào thế kỷ XII khi các đoàn Thập Tự Quân chiến thắng tiến
vào Giê-ru-sa-lem, họ thấy ngôi mộ Chúa đã được trùng tu. Sau đó, họ đã quyết
định cho xây lại Vương cung Thánh đường Mộ Chúa vĩ đại gồm bốn phần, bao trùm
toàn bộ các thánh tích nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh và nơi Chúa sống lại. Ngôi
Vương cung Thánh đường Mộ Chúa hiện nay cùng có hình dạng của ngôi Vương cung
Thánh đường được xây dựng thời Thập Tự Quân.
Ở đây, chúng ta cũng nên nhắc lại là cuộc đại hỏa hoạn vào
cuối năm 1808 và cuộc động đất vào năm 1927, đã làm thiệt hại nặng nề ngôi
Vương cung Thánh đường. Vì thế, vào năm 1947 khi người Anh nắm quyền bảo hộ
Palestina, để chống đỡ và bảo vệ Vương cung Thánh đường khỏi bị sập đổ, họ đã
cho dựng những giàn ráo bằng sắt chung quanh toàn bộ ngôi Vương cung Thánh
đường. Về sau, các cộng đồng thuộc các Giáo Hội Kitô giáo đã nhất trí cần phải
tổ chức những cuộc khai quật qui mô ở các phần khác nhau của ngôi mộ Chúa. Đây
là một dịp thuận tiện để trùng tu lại toàn diện Vương cung Thánh đường Mộ Chúa,
và công việc trùng tu được giao phó cho Linh mục Virgilio Corbo, một Tu sĩ Dòng
Phanxicô đã sống lâu năm ở Palestina.
Trong khi khởi công tôn tạo lại thánh tích Mộ Chúa, một nơi
đã được dùng canh giữ xác thánh Chúa trong suốt ba ngày, sau khi Người được các
Môn đệ tháo từ Thánh giá xuống, người ta đã lợi dụng dịp tốt ấy để khai quật
toàn bộ khu vực Golgota và ngôi mộ Chúa. Nhưng để có thể thực hiện được điều
đó, cần phải được sự đồng ý của ba Giáo Hội Kitô giáo liên hệ, đó là Giáo Hội
Chính Thống Hy Lạp, Giáo Hội Armenien và Giáo Hội La-tinh như vừa nói trên. Sự
nhất trí hy hữu này của các Giáo Hội là một dấu chỉ tích cực về sự hiệp nhất
huynh đệ giữa họ, một điều mà chính Chúa Cứu Thế hằng tha thiết mong ước, như
chính Người đã từng cầu nguyện cùng Chúa Cha trước khi Người bước vào cuộc khổ
nạn: „Lạy Cha, xin cho họ hiệp nhất nên một, như Cha và Con là một!“
Chớ gì sự mong ước khẩn thiết của Chúa Cứu Thế về sự hiệp
nhất giữa các Kitô hữu như thế được hiện thực một cách thực tiễn giữa các Giáo
Hội Kitô giáo cũng như giữa các Kitô hữu.
__________________________
Chú thích:
1. Bar Kokba là vị chỉ huy cuộc nổi dậy thứ hai của dân
Do-thái chống lại quân đô hộ Roma từ năm 132 đến 135.
2. Decumanus: trục giao thông Đông-Tây, còn Cardo: trục giao
thông Nam-Bắc.
3. Capitolium là một đền thờ ngoại giáo được xây theo kiểu
Capitolium ở Roma để thờ các thần Jupiter, trong tiếntg Hy Lạp là Zeus. Thần
Jupiter mà người Roma ngoại giáo xưa kia thờ kính là chúa của các thần, Juno và
Minerva.
4. Venus là thần tình yêu, thần sắc đẹp và là thần khiêu dâm
của người Roma xưa.
5. Anastasis: ngôi đền hình tròn xây bao bọc ngôi mộ Chúa.
6. Atrium: tiền sảnh của ngôi vương cung thánh đường.
7. Triportico: hành lang các hàng cột ba mặt.
8. Martyrium: ngôi đại vương cung thánh đường, nơi cử hành
các lễ nghi phụng vụ.
9. Thánh Cyrill cũng được gọi là Kyrill (313-389), được sinh
trưởng tại Giê-ru-sa-lem. Từ năm 348 ngài được chọn làm Giám Mục Giê-ru-sa-lem.
Lm Nguyễn Hữu Thy