Linh mục Đaminh Maria Trần Đình Thủ, CMC, sáng lập Dòng „Đức Mẹ Đồng
Công Cứu Chuộc“
Sơ lược về Dòng Đồng
Công
Dòng Đồng Công do linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ thành
lập năm 1953 tại Việt Nam.Ai cũng biết mỗi nhà Dòng thuộc Thiên chúa giáo đếu
có nhiều bất động sản, Dòng Đồng Công cũng vậy. Năm 1970 Dòng thiết lập cư xá
sinh viên Rạng Ðông tại Ðà Lạt để giúp các sinh viên nghèo có nơi cư trú theo
học đại học Ðà Lạt. Dòng lập một tu viện tại Ðồng Lạc thuộc quận Di Linh, tỉnh
Lâm Ðồng, từ năm 1971. Tu viện này toạ lạc trong một khu đồn điền rộng 47 mẫu
tây trồng trà, cà phê, bơ, mít... mà Dòng đã mua lại của một người Pháp.Sau
ngày 30/04/1975, miền Nam bị rơi vào tay CSVN thì đến ngày 02/06/1975, Cha Đa
Minh Trần Đình Thủ bị CSVN bắt bỏ tù tại Di Linh, Lâm Đồng cùng với 52 người
của nhà Dỏng. Ngày 29/04/1977 Cha Đa Minh được trả tự do về sống với anh em
Dòng tại Thủ Đức. Toàn bộ bất động sản tại tình Lâm Đồng bị CSVN chiếm đoạt.Sau
vụ án Dòng Đồng công tại Thủ Đức, Cha được CSVN trả tự do vào năm 1993 và sống
tại Thủ Đức cho đến ngày thứ Năm 21/06/2007, đã từ trần tại bệnh viện Nguyễn
Tri Phương.
Là một phật tử nên tôi không hiểu biết nhiều về Thiên chúa
giáo, chỉ biết lờ mờ Thiên chúa giáo có nhiều Dòng, chẳng hạn Dòng Chuá Cứu
thế, Dòng Mến Thánh giá, Dòng La san, Dòng Đa minh, Dòng Đồng công, nhưng tôi
vẫn luôn tin có Thượng đế, là đấng tối cao đã an bài cho mỗi con người có một
số mệnh riêng trong cuộc sống tạm bợ ở cõi trần gian ô trọc, con người, dù có
tài giỏi hay cù lần, dù có thông minh, khôn ngoan hoặc ngu si, đần độn, dù có
lanh lợi hay chậm chạp, vẫy vùng cho lắm, cũng không thoát khỏi số trời đã định
sẵn.
Tại Việt nam, chỉ có các tu sĩ quốc doanh mới dạy tín đồ tin
theo Bác và Đảng, còn các tu sĩ chính thống của các tôn giáo luôn đòi hỏi nhà
cầm quyền tôn trọng tự do tín ngưỡng và không can thiệp vào những hoạt động
thuần túy tôn giáo.Trong nước Việt nam hiện nay, những tín đồ Thiên chúa giáo
và Phật giáo Hoà hảo là những người có tinh thần chống Cộng triệt để hơn những
tín đồ của các đạo giáo khác, là một điều không ai có thể phủ nhận, kể từ những
năm trước 1975, và sau ngày 30/04/1975, CSVN cũng ra sức làm lu mờ ảnh hưởng
của Tòa thánh Vatican đối với tín đồ Thiên chúa giáo tại Việt nam, nên đã cố
gắng bằng mọi cách để đặt Thiên chúa giáo, nói riêng, và mọi tôn giáo khác, nói
chung, dưới sự lãnh đạo độc tôn của Đảng và Nhà nước.Vì lý do nào mà CSVN lại
ra sức tiêu diệt Thiên chúa giáo?
Chính vì Thiên chúa giáo là khắc tinh của CSVN. Để giải
thích tường tận thì phải tốn rất nhiều giấy mực, nên chỉ xin được tóm tắt những
ý chính :Giưã hai tôn giáo lớn tại Á châu là Phật giáo và Thiên chúa giáo,
không ai có thể chối bỏ một sự thật rằng Thiên chúa giáo có tổ chức qui củ, từ
một phạm vi nhỏ hẹp trong từng họ đạo hoặc giáo xứ, cho đến địa phận, các giáo
dân đã tuân thủ giaó lý, tôn trọng những người chức sắc trong họ đạo và tuân
lời vị cha xứ, giám mục địa phận triệt để.
Hơn nữa, là một sinh vật, muôn loài đều muốn có một cuộc
sống vĩnh cửu, con người luôn đặt câu hỏi rằng ta từ đâu đến cái thế gian trần
tục này và sau khi chết, sẽ đi về đâu ? Câu hỏi đặt ra thuộc về đời sống tâm
linh, nên câu giải đáp cũng phải thuộc về đời sống tâm linh.
Cuộc sống vĩnh hằng là cuộc sống trên thiên đàng, và chỉ có
đấng tối cao mới cứu rỗi được mọi sinh vật, trong đó có con người.Để sau khi
chết được sống trên thiên đàng vĩnh cửu, ngươì dân phải luôn tuân lời vị lãnh
đạo tinh thần, là ngươì có nhiệm vụ dẫn dắt con dân trong cuộc sống tạm bợ tại
thế gian theo hướng đi của đạo giáo.
Vì lý do này, lời nói của những vị tu sĩ , nói chung, các
Linh mục, Giám mục...luôn có uy tín và giá trị đối với các tín đồ, và tín đồ đã
tuân lời những vị lãnh đạo tinh thần bằng chính trái tim của họ. Đó là trở ngại
trong việc tuyên truyền làm cho người dân tin và trung thành với Đảng Cộng sản.
Đối với những giáo điều, triết lý duy vật của người Cộng
sản, Chúa và Phật không đem lại cơm áo cho con người, chỉ có sức người mới làm
ra của cải, vật chất, mà chỉ có Đảng Cộng sản là đảng duy nhất, tập trung tầng
lớp công nông, thành phần đông đảo nhất trong nhân dân, có nhiệm vụ dìu dắt
nhân dân đến bến bờ tự do, hạnh phúc, theo chủ nghiã Cộng sản ưu việt, có theo
Đảng dẫn dắt thì mới có gạo cơm để ăn, có áo để mặc, mà họ vẫn nói với những
người tù cải tạo, với người dân là ”với sức
người, sỏi đá biến thành cơm” và đã quên mất ông cha ta vẫn có câu tục ngữ „mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Đã nhiều năm trôi qua, kể từ khi CSVN chiếm được miền Bắc,
rồi xâm chiếm miền Nam, Đảng và nhà cầm quyền vẫn ra sức thực hiện kế hoạch thống
nhất các tôn giáo đặt dưới sự quản trị thống nhất của Đảng và nhà nước, thông
qua một tổ chức của Đảng, có tên là Mặt trận Tổ quốc, bằng cách khuyến dụ các
tu sĩ, thu hẹp hoạt động của tôn giáo bằng hình thức mượn đất đai thuộc sở hữu
của giáo hội rồi không trả lại theo kiểu “Để lâu, cứt trâu hoá bùn”, hoặc bằng
đe dọa, bằng bạo lực trấn áp, dưới danh nghiã một vụ án hình sự nào đó, vừa
chiếm được đất đai, vừa đàn áp tinh thần các tu sĩ và tín hữu để dần phải khuất
phục, tuân theo mọi chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, để bản thân và thân nhân
trong gia đình được yên thân. Ngay sau khi chiếm được miền Nam, CSVN đã tiến
hành hai việc họ cho là tối quan trọng là cải tao tư sản công thương nghiệp tư
bản tư doanh và tước đoạt đất đai thuộc sở hữu của giáo hội, đồng thời, bôi
nhọ, phỉ báng, cố tình gây mấy uy tín của các linh mục đạo Công giáo, cụ thể là
họ đã cho sản xuất phim truyện ”Ngày lễ thánh” đem trình chiếu khắp nơi tại
Việt nam. Nằm trong chủ trương bôi nhọ tôn giáo, những cựu quân cán chính bị tù
tại các trại cải tạo chính trị khắp nơi tại miền Nam đã bị bắt buộc phải xem từ
đầu cho đến hết phim “Ngày lễ thánh”, nhưng nhiều lần, đoàn chiếu phim lưu động
đã bị giáo dân ném đá, phải ôm máy chiếu phim bỏ chạy khi chiếu phim này tại
các nơi đông dân cư là giáo dân Thiên chúa giáo.
Phim “Ngày lễ thánh” do nữ tài tử Trà Giang thủ vai chính,
diễn xuất trong vai một cô gái mới lớn, xinh đẹp, ngây thơ, trong trắng, và là
một con chiên ngoan đạo, sinh sống tại một vùng thôn quê có một nhà thờ đạo
Thiên chúa, do một vị linh mục quản nhiệm. Trong giáo xứ này, những con chiên nào được đeo một cái
thánh giá trước ngực „tử vì đạo“ sẽ được giáo dân tôn kính, trọng vọng. Cha xứ
tại đây là một kẻ háo sắc, đa dâm, để chiếm được ngươì thiếu nữ đồng trinh này,
đã nói với cô gái rằng „Cha là đại diện
cho Chúa, con hiến thân cho Cha tức là hiến thân cho Chúa”, và con chiên
ngoan đạo này đã hiến thân cho Cha xứ, sau đó, được ban cho cái thánh giá “Tử
vì đạo“.
Trong thời gian vài năm gần đây, mọi ngươì đã rõ tình trạng CSVN đàn áp
tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo. Đây không phải là lỗi lầm của vài cán bộ
địa phương, cơ sở đã lạm dụng chức vụ và quyền hạn để chiếm đoạt đất đai, hành
hung giáo dân, bỏ tù Linh mục quản xứ, mà chính là chủ trương của Trung ương
Đảng và nhà cầm quyền CSVN đang thực thi chính sách chiếm dụng đất đai của Giáo Hội.
A/ Tiếp theo vụ án
Linh mục Tadeo Nguyễn văn Lý tại Giáo xứ Nguyệt Biều, nhà
cầm quyền CSVN rập khuôn tiếp diễn vở kịch đàn áp tôn giáo với Giáo xứ Kế Sung,
do Linh mục Đặng văn Nam làm quản xứ, cũng thuộc Tổng giáo phận Huế, cũng chỉ
vì mục đích chiếm đất đai của giáo hội, và hiện nay, đang tiến hành kế hoạch
theo kiểu “bổn cũ soạn lại” đối với Giáo xứ Thái Hà.
Trong giai đoạn Đảng và nhà cầm quyền CSVN đang ra sức đàn
áp tôn giáo bằng bạo lực, chúng tôi cố gắng hồi tưởng lại quá khứ hơn hai mươì
năm qua để xin kể lại hầu quí độc giả vụ án Dòng Đồng công tại huyện Thủ Đức,
thành phố Sàigon, là chứng tích đầu tiên tại miền Nam mà nhà cầm quyền CSVN
tiến hành xóa bỏ, hoặc thu hẹp hoạt động của Thiên chúa giáo, bằng bạo lực trấn
áp do công an và Toà án thực hiện để chiếm đoạt tài sản của giáo hội. Tin đồn
có biểu tình của tín đồ Thiên chúa giáo tại Thủ đứcKhoảng gần giữa năm 1987, bà
con tại Saigon xôn xao bàn tán một sự việc xảy ra tại Thủ Đức, người thì kể
rằng tín đồ Thiên chúa giáo biểu tình, người thì nói công an đã bao vây Dòng
Đồng công không cho ai ra vào, lại có nguồn tin có xô xát giữa công an và giáo
dân, cả hai bên đều có ngươì bị thương.
Một thời gian ngắn sau đó, báo Saigon giải phóng tường thuật
về vụ việc xảy ra tại Dòng Đồng công, Thủ Đức rằng công an đã khám phá tài liệu
dạy giáo lý cho tín hữu của Dòng Đồng công do Linh mục Đa Minh Maria Trần đình
Thủ soạn thảo, mang tính chất tuyên truyền phản động chống Đảng và nhà nước XHCNVN,
và đã phong tỏa khu vực Dòng Đồng công vào ngày 15/5/1987, tịch thu lương thực,
khoảng 5 tấn gạo, tín hữu Dòng Đồng công đã bao vây, ngăn cản công an thi hành
nhiệm vụ, dùng vũ khí chống lại lực lượng công an huyện Thủ đức phối hợp cùng
Công an thành phố Hồ chí Minh, đánh trọng thương 3 chiến sĩ công an rồi vứt bỏ
tại nghiã địa, cùng hình chụp trên báo Saigon Giải phóng cho thấy các vũ khí mà
các tín hữu sử dụng chống lại công an là hai cái ná mà các thanh thiếu niên
thường dùng với viên sỏi để bắn chim sẻ, và vài cái gậy dài khoảng 01 thước.
Linh mục Trần đình Thủ đã bị bắt giam ngày 02/07/1987 và bị
giam giữ tại khám Chí hoà. Một ngày nọ, lúc đó đã gần 10 giờ đêm, gia đình tôi
đã sửa soạn đi ngủ, thì một người thân chủ cũ, một tín đồ Thiên chúa giáo, đã dẫn
một vị khách đặc biệt đến nhà tôi, đó là một người đàn ông, da dẻ trắng trẻo,
dáng người tầm thước, và trông hiền lành như một vị tu sĩ. Tôi biết rõ người
thân chủ này, một giáo viên tại chức, và tin tưởng người được dẫn đến đang ở
trong hoàn cảnh hoạn nạn, cần được giúp đỡ. Sau phần giới thiệu, tôi được biết
người đó là một vị tu sĩ, là một vị Thày của Dòng Đồng công, và vị linh mục
trưởng Dòng là Tổng Giám đốc Trần đình Thủ, người Việt nam đầu tiên sáng lập ra
một Dòng tu của Thiên chúa giáo. Sau khi biết được ý định của Thày đến gặp tôi
là để mong trợ giúp cho Dòng Đồng công đang gặp hoạn nạn. Tôi đã góp ý rằng nếu
Thày hy vọng vào sự giúp đỡ của bất cứ ai có thể làm cho Cha bề trên được vô
tội, chỉ là hoài công, vô ích, vì mục tiêu của vụ án này không phải là Cha có
thực sự phạm tội này, tội nọ hay không, mà mục tiêu của Đảng và Nhà nước là làm
cách nào có thể chiếm hữu được vùng đất đai rộng lớn của Dòng Đồng công tại Thủ
Đức, mà không gặp phải sự chống đối của giáo hữu Dòng, vì thế, một hay nhiều tội
danh nào đó có thể sẽ được áp đặt cho Cha, chỉ là lý do được tạo ra để tiêu
diệt hoặc trục xuất Dòng Đồng công nhằm chiếm đoạt vùng đất béo bở tại Thủ Đức.
Thời gian này, gia đình chúng tôi vừa nhận được giấy phép xuất cảnh đi Hoa Kỳ
của nhà cầm quyền CSVN, đang chờ phái đoàn Mỹ gọi phỏng vấn.
Trước hoàn cảnh này, thực sự tôi rất lo sợ bởi vì nếu vì
lòng nhân đạo mà dấn thân vào vụ này, chẳng may bị CSVN biết được thì họ sẽ thu
hồi toàn bộ giấy phép xuất cảnh đã cấp ra, còn bản thân mình sẽ bị vào tù, khổ
cho cả gia đình.Tôi giải thích rõ cho vị thày này biết những gì có thể xảy ra
cho gia dình chúng tôi, và xin thày đi tìm người khác.Vị thày cho biết đã đến
nhờ vả tại Phòng bào chữa viên nhưng không tin tưởng họ, nên đã năn nỉ tôi cố
gắng giúp đỡ cho Dòng. Sau cùng, với máu “anh hùng rơm”, bất chấp hiểm nguy,
tât cả phó mặc cho Thượng Đế an bài, tôi đã nhận lời trơ giúp cho Dòng Đồng
Công và yêu cầu vị Thày phải hết sức thận trọng mỗi lần đến gặp tôi. Vị Thày
hứa rằng mỗi lần muốn đến tìm tôi, thày sẽ đến vào buổi tối, nhưng sẽ phải rời
nhà Thày từ sáng sớm, thày sẽ đi loanh quanh hết chợ này đến chợ khác, hết ngõ
hẻm này đến ngõ hẻm khác nhằm tránh sự theo dõi của bọn Công an và trinh
sát. Sau cùng, chúng tôi đồng ý vấn đề cần phải quan tâm là sẽ làm bất cứ điều
gì có thể làm được, nhằm tránh né cho Cha bề trên Trần đình Thủ không bị buộc
vào những tội làm ô uế thanh danh của một vị tu sĩ Thiên chúa giáo, giống như
CSVN đã từng bắt giữ một vị Linh mục tại Định quán thời gian ngắn trước đó về
tội dụ dỗ gái vị thành niên, khi loan tin đã tìm thấy chiếc áo dài của một cô
gái mắc trên cái mắc áo trong phòng ngủ của vị Linh mục.
B/ Diễn tiến sự việc
Theo lời tường thuật của vị Thày thì CSVN đã căn cứ vào một
vài câu trong sách kinh do Linh mục Trần đình Thủ biên soạn để giảng dạy giáo
lý cho giáo dân phải đặt hết lòng tin vào Chuá, mà Đảng CSVN suy diễn rằng linh
mục đã dạy giáo dân không tin vào Đảng, vào nhà nước XHCN, nghiã là lợi dụng
tôn giáo để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước CHXHCNVN. Nhà cầm quyền tiến
hành việc đình chỉ tạm thời mọi hoạt động của Dòng Đồng công tại Thủ đức bằng
cách niêm phong cơ sở và tịch thu tài sản của Dòng, đó là ngày 15/05/1987, căn
cứ vào một án lệnh đặc biệt của Viện kiểm sát nhân dân (Công tố viện), trong
thời gian chờ vụ án được đưa ra Toà xét xử. Khi lực lượng công an tiến vào khu
vực nhà Dòng, với 5 chiếc xe vận tải Molotova - loại xe vận tải quân sự do Nga
sô sản xuất - các tín hữu biết tin và cùng đổ xô ra bảo vệ Dòng. Khi thấy những
chiếc xe Molotova chở đầy gạo chạy ra, tín hữu đã dùng thân mình làm vật cản
không cho xe chở gạo đi.
Công an dùng dùi cui và roi điện giải tỏa đám đông, tín hữu
phải dùng vũ khí thô sơ là cái gậy và ná bắn chim với những viên sỏi nhỏ để
chống trả.Trước sức kháng cự quyết liệt của tín hữu, công an đã sử dụng một
linh mục từ nơi khác đến để thuyết phục tín hữu giải tán, nhưng giáo dân không
nghe lời vị linh mục này. Sau đó, có 3 vị linh mục lạ mặt xuất hiện, yêu cầu
đám đông mở đường cho vào nhà Dòng tiếp xúc với Cha bề trên Dòng và được giáo
dân mở đường cho họ vào.
Sau khi nói chuyện với Cha yêu cầu nhà Dòng cử một vị linh
mục ra giải tán giáo dân và được chấp nhận, 03 vị linh mục lạ mặt ra về với vẻ
mặt hớn hở. Nhưng diện mạo, tác phong, cách đi đứng của 3 vị linh mục này không
bình thường như những vị linh mục khác, dáng đi cứng cáp, tiếng giày nệm mạnh
kêu cồm cộp trên lối đi, đã khiến những tín hữu thân cận quanh Linh mục Trần
đình Thủ ngạc nhiên, nghĩ thầm trong bụng tại sao bước đi của những vị linh mục
này lại có dáng dấp, kiểu cách của một quân nhân như vậy, và lưu ý theo dõi.
Khi bước chân ra về, có lẽ do nhiệm vụ thuyết phục đã thành
công quá dễ dàng, khiến 03 vị linh mục vui vẻ, hoặc vì muốn mau chóng ra khỏi
nhà Dòng, nên bước chân của họ nhanh hơn bình thường, mỗi bước chân dài hơn một
chút, vô tình để lộ ra mũi giày, loại giày nhà binh ngắn cổ của công an,
lộ ra ngoài vạt của những chiếc áo thâm chùng, không thoát khỏi tia mắt theo
dõi của các tín hữu, một tín hữu đi theo phiá sau 03 vị linh mục này, đánh bạo
tiến nhanh hơn, rồi bất chợt cúi người, nhanh tay nắm vạt áo của một vị
linh mục, kéo cao lên thật nhanh, lộ ra chiếc quần công an bên trong.
Biết đã bị lộ tẩy, để tự bảo vệ mình, 03 vị linh mục lạ mặt
tự giới thiệu họ là 3 chính trị viên công an mặc giả áo linh mục để tiếp xúc
với Giám đốc Dòng Đồng công và Giám đốc Dòng cũng đã biết họ là công an.
Mặc cho 3 người công an giải thích, các tín hữu đã không kềm
được sự tức giận, la lớn báo tin cho các tín hữu khác “chúng nó là công an”,
thế là bà con nhào vô, bề hội đồng 3 ngươì công an này bằng tay, bằng
chân, bằng cây gậy, nhừ tử đến ngất sỉu, rồi lôi ra vứt bỏ ngoài nghiã địa.
C/ Cha bề trên Dòng
Đồng công bị bắt
Khi Dòng Đồng công đã bị niêm phong, Cha bề trên Trần đình
Thủ phải đi tị nạn tại một căn nhà của một tín hữu tọa lạc tại mặt tiền đường
Lê văn Duyệt cũ, nay đổi tên là đường Cách mạng tháng tám, gần Ngã ba ông
Tạ.Cha có thói quen uống cà phê mỗi buổi sáng, nên người nhà của giáo hữu này
phải băng xéo qua bên kia đường , đối diện Ngã ba ông Tạ để đều đặn mỗi sáng
mua một ly cà phê cho ngài dùng tại một quán cà phê dựng trên lề đường, phiá
trước của các bàn ghế lẹp xẹp cho khách ngồi nhâm nhi ly cà phê nóng là con
đường Lê văn Duyệt, mà lòng lề đường là nơi đậu xe đón khách của đủ các loại
dân lao động như xe thồ, xe xích lô, xe ba bánh.
Trong thời gian qua, CSVN đã khám phá nhiều âm mưu chống
Đảng, chống nhà cầm quyền từ trong nước cũng có, từ nước ngoài về cũng có. Có
những ngươì thắc mắc tại sao bọn Công an CSVN rất dễ khám phá những âm mưu
chống đối, chúng săn nhặt những nguồn tin tức tình báo bằng cách thức nào mà
tài giỏi vậy?
Đối với Đảng CSVN, bảo vệ an ninh chính trị là tối quan
trọng để bảo vệ sự vững mạnh của Đảng, của chế độ, của nhà nước. Chúng đã tổ
chức hệ thống gián điệp hoạt động quốc ngoại, tình báo hoạt động quốc nội thật
tốn phí và tinh vi.
Ở trong nước, chúng có các công an chìm, được gọi là
trinh sát, giả dạng là những người dân lao động làm đủ mọi ngành nghề, buôn
thúng bán bưng, buôn bán trong các chợ, làm các nghề lái xe ôm, xe thồ, đạp xe
ba bánh, đạp xe xích lô, thậm chí làm cả nghề “chị em ta” nhằm mục đích nghe
ngóng tin tức do các khách hàng vui miệng kể ra, không loại trừ cả Việt kiều,
hoặc những ngươì trong nước bất mãn nhà cầm quyền, tưởng lầm bọn trinh sát giả
dạng là những người dân nghèo khổ, bất mãn cùng tâm trạng giống như họ, nên thổ
lộ hoặc tuyên truyền lôi kéo theo phe nhóm, qua những tin tức đó, công an CSVN
theo dõi tình hình an ninh trong nhân dân.
Trong lúc vui chuyện với khách tại quán cà phê, bà chủ
quán vô tình kể rằng cái nhà đó, trước kia, có bao giờ mua cà phê đâu, mà dạo
này sáng nào cũng đi qua bên này mua cà phê, chắc có khách lạ từ phương xa đến
có thói quen uống cà phê buổi sáng, và câu nói này đã lọt vào tai của bọn
trinh sát lởn vởn ngồi loanh quanh đó.
Vài ngày sau, công an khu phố đã đến kiểm soát căn nhà bị
nghi vấn, nhưng không tìm thấy trong nhà có ngươì lạ mặt tá túc, kiểm tra trong
sổ xin phép tạm vắng tạm trú cũng không thấy gia chủ xin phép cho ai đến tạm
trú trong thời gian qua, nhưng sáng nào cũng vậy, ngươì nhà của tín hữu đó vẫn
đều đặn sang quán cà phê để mua một ly cà phê nóng. Điều này càng làm cho cái
nghi vấn của bọn công an rằng nhà đó đang có dấu diếm ngươì là có thật, cần
phải nhanh chóng “bắt nóng”.
Sau khi phối kiểm tin tức với Công an địa phương, Công an
Thành phố phối hợp với Công an Quận tiến hành khám xét nhà của vị tín hữu này
bất ngờ vào một buổi tối, sau khi lục soát khắp nơi, từ phiá bên ngoài nhà vào
tới bên trong nhà, công an không tìm thấy có ngươì lạ mặt nào trú ngụ trong
nhà, họ đành ra về, khi bước chân ra tới trước cửa ra vào, trưởng toán công an
quay ngươì lại để chào chủ nhà, nhưng chính yếu là để có cơ hội đảo cặp mắt
quanh nhà kiểm soát lần sau cùng, cái nhìn tổng thể khắp căn nhà, nhìn từ cửa
chính ra vào, đã cho phép cặp mắt cú vọ của tên công an vô tình nhìn thấy
toàn vẹn cái trần nhà, và một điều khác lạ đã đập vào mắt y, y nhận thấy mọi
nơi trên trần nhà đều có màng nhện phủ đây đó, riêng một vùng nhỏ, gần góc trần
nhà, nơi có cái nắp trần nhà hình ô vuông, thì lại có vẻ sạch sẽ, có thể là nơi
gia chủ thường xuyên leo lên trần nhà để làm cái gì đó, nơi đó là điểm
nghi ngờ trong kỹ thuật điều tra, thế là tên trưởng toán công an ra lệnh cho
các tên công an quay trở vào nhà, y yêu cầu gia chủ lấy cho mượn cái thang, hai
tên công an leo lên trần, dùng đèn pin rọi sáng khắp nơi để kiểm soát, và chúng
đã thấy được Linh mục Trần đình Thủ đang nằm trốn tại một cái góc trần nhà.
D/ Cha bề trên Dòng
Đồng công bị buộc tội là gian thương
Sau khi bị bắt, Cha đã bị giam giữ tại Khám Chí hoà. Với mục
đích bôi nhọ và làm ô nhục giáo hội Thiên chúa giáo nói chung, bêu riếu, làm
mất uy tín của Cha bề trên Dòng Đồng công, nói riêng, dựa vào tình hình khan
hiếm gạo, cùng với số lượng hơn 5 tấn gạo bị tịch thu, và căn cứ vào qui định
về lương thực của nhà nước thì mỗi ngươì chỉ được hưởng tiêu chuẩn 15 Kg gạo
một tháng và được tích trữ không quá 3 tháng, tức là 60Kg gạo, Viện kiểm sát đã
buộc tội ngài là một kẻ gian thương, phạm tội đầu cơ lương thực căn cứ Điều 165
của Bộ luật Hình sự thời bấy giờ , như sau : “Người nào lợi dụng tình hình
khan hiếm, mua vét hàng hoá nhằm bán lại thu lợi bất chính . Nếu hàng phạm pháp
có số lượng lớn hoặc giá trị lớn thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm. CSVN đã
xếp vụ án này vào loại án hình sự kinh tế.Chúng tôi xin mạn phép được giải
thích ý nghiã thế nào là “ hưởng lợi bất chính “ : Trong tình trạng hàng
hoá, lương thực cung ứng đủ cho số lượng người dân cần dùng, ngươì ta nói là
cung ngang bằng với cầu - giá cả thị trường quân bình, là dấu hiệu của một nền
kinh tế ổn định, cuộc sống ngươì dân bình thường. Có những trường hợp do thiên
tai hoặc vì trở ngại trong việc nhập khẩu nhu yếu phẩm, hàng hoá, lương thực
không đủ cung ứng cho người tiêu dùng, tức hàng bị khan hiếm, và đây là khan
hiếm thực sự, nền kinh tế tạm thời bị coi là mất ổn định.
Ngoài trường hợp trên, những người hoạt động kinh tế, thương
mại cỡ lớn, cũng có khả năng gây xáo trộn nền kinh tế, từ ổn định thành mất ổn
định, bằng cách tạo ra một tình trạng khan hiếm giả tạo về lương thực, hàng
hóa, nghiã là hàng hoá trên thị trường không bị thiếu, nhưng họ có kế hoạch
đồng loạt mua gom một hay nhiều loại hàng hoá nào đó, cất giữ tại các kho hàng,
và không xuất hàng ra bán ngoài thị trường, những nhà kinh doanh cỡ nhỏ thấy
hàng hoá, lương thực, từ từ khan hiếm cũng vội mua gom, mua vét, chỉ sợ hết
hàng hoá, sẽ không còn hàng hoá để mua tiêu dùng hoặc để bán, chỉ một thời gian
ngắn, số lượng hàng hoá, lương thực đó sẽ tự nhiên biến mất dần tại các chợ,
các siêu thị.. trong khi ngươì dân thì lại cần mua loại hàng hoá, lương thực đó
hàng ngày nhưng tìm không ra, hàng bị khan hiếm, người ta nói rằng cung không
đủ cho cầu, nền kinh tế mất ổn định.
Nếu hàng khan hiếm là một loại nhu yếu phẩm, khi bị tăng
giá, sẽ làm cho các hàng hoá, lương thực khác bị ảnh hưởng về giá cả, ví dụ khi
gạo tăng giá thì các loại hàng hoá khác cũng sẽ bị tăng giá theo. Vì ngươì dân
có nhu cầu tiêu dùng nên sẵn sàng mua hàng hoá, lương thực bị khan hiếm với giá
cả đắt hơn giá bình thường, vật giá bị nâng cao, giá bị tăng gấp nhiều lần so
với giá hàng hoá cùng loại trong tình trạng một nền kinh tế ổn định, những kẻ
tạo nên sự khan hiếm hàng hoá giả tạo này bị gọi là gian thương. Khi thấy nhà
cầm quyền không biết đến thủ đoạn dấu hàng hóa, lương thực và khi ngươì dân sẵn
sàng chấp nhận giá cả do họ ấn định đối với loại hàng hoá, lương thực trong
tình trạng khan hiếm, gian thương mới tuôn hàng ra bán tại thị trường và tha hồ
hốt bạc.
Sự khác biệt giữa giá hàng hoá, lương thực được bán ra trong
tình hình kinh tế ổn định và giá hàng hoá. lương thực, sau khi hàng hóa, lương
thực được nâng giá, bán ra trong tình hình khan hiếm hàng hoá giả tạo, được gọi
là giá bán chênh lệch, và giá bán chênh lệch này chính là phần tiền lời bất
chính, mà gian thương được hưởng bằng thủ đoạn gian manh. Những ngươì kinh
doanh nhỏ, mặc dù không phải là gian thương cỡ lớn, nhưng cũng đã mua gom, mua
vét để bán lại kiếm lời khi hàng lên giá, vô tình làm cho tình trạng khan hiếm
giả tạo mau chóng xảy ra hơn, gây mất quân bình kinh tế, cũng là những đồng
lỏa.
Tội đầu cơ tích trữ không những được qui định trong luật
pháp các quốc gia trong khối Tự do, mà cũng được qui định ngay cả trong luật
pháp các quốc gia khối Cộng sản. CSVN đã cho phép Thày được thăm nuôi Cha bề
trên Dòng Đồng công, và sau khi được biết bị khép tội phạm hình sự kinh tế, và
bị gán lá gian thương, Cha đã không nhận tội, nhưng chỉ là một tu sĩ, giỏi về
giáo lý, giỏ về giảng đạo cho tín hữu, nhưng lại không biết làm sao để tự bào
chữa cho mình là vô tội, mà chỉ biết nói rằng Cha không phạm tội.
Vì Linh mục Trần đình Thủ đang bị ở trong nhà tù, nên tôi
phải viết một bản biện minh cho ngài dưới hình thức một bản tự bào chữa, một
bản tự biện minh, vì lý do bị buộc tội oan, sau đó, Cha sẽ đọc lại bản viết,
nếu đồng ý sẽ ký tên, rồi nộp cái bản tự bào chữa đó cho bọn công an và kiểm
sát viên thụ lý hồ sơ.
Căn cứ điều luật qui định về Tội đầu cơ, nói chung của các
nước tự do và của CSVN, kẻ phạm pháp đã phải thực hiện hai hành vi căn bản ,
gọi là hai yếu tố cấu thành tội phạm : 1/ Phải có hành
vi tích trữ, nghiã là kẻ phạm tội đã mua gom, mua vét hàng hoá, lương thực vượt
mức tích trữ qui định. 2/ Việc tích trữ hàng hoá, lương thực phải có mục đích
sẽ bán lại cho công chúng trong tương lai để hưởng lợi chênh lệch.Tôi thắc mắc
lý do gì mà Dòng Đồng công lại có quá nhiều gạo như vậy, Thày giải thích rằng
tổng số ngươì sinh sống và phục vụ trong nhà Dòng chỉ độ khoảng 30 người ,
nhưng hàng tháng, nhà Dòng đều có các lớp dạy giáo lý nội trú cho từ 70 đến 100
tín hữu, tức 1500 Kg gạo một tháng, tổng cộng số người do nhà Dòng phải nuôi ăn
là 100 người x 45Kg = 4500 Kg gạo một tháng, cộng thêm với số ngươì cơ hữu
thường xuyên sinh sống trong nhà Dòng 30 người x 45 Kg = 1350 Kg, tổng cộng số
gạo cần thiết để nuôi ăn và tích trữ trong vòng 3 tháng là 4500Kg + 1350Kg =
5850 Kg gạo, tức là 5tấn 850 kg gạo, nghĩa là gần 6 tấn gạo.Số lượng gạo bị
tịch thu là hơn 5 tấn, không vượt quá mức tích trữ lương thực theo qui định dựa
trên số lượng người mà Dòng phải nuôi ăn hàng tháng, và Dòng Đồng công không
tích trữ gạo nhằm mục đích bán lại cho công chúng để hưởng lời chênh lệch giá,
nên công an và Viện kiểm sát CSVN không thể buộc tội đầu cơ cho Giám đốc Dòng,
và cũng không thể gọi ngài là gian thương theo nguyên tắc căn bản : Không có tội
tích trữ thì không có tội đầu cơ.Bản tự biện minh không phải là gian thương và
không phạm tội đầu cơ đã được Công an điều tra xét hỏi (Công an thẩm vấn) và
Viện kiểm sát chấp nhận và rút lại lời buộc tội bị can Trần đình Thủ phạm tội
đầu cơ
E/ Cha bề trên Dòng
Đồng công bị buộc tội nhận tiền của nước ngoài để hoạt động chống Nhà nước CSVN
Trong những ngày kế tiếp, công an đã hạch hỏi tiếp Cha bề
trên Dòng Đồng công nguồn tiền ở đâu mà có để mua gần 6 tấn gạo, và nguồn tiền
ở đâu để mua thực phẩm ăn uống hàng ngày, trong khi nhà Dòng không có hoạt động
kinh doanh thương mại? Phải chăng đã có nguồn tiền từ nước ngoài cung cấp? và
nhà Dòng đã nhận tiền của nước ngoài để hoạt động tuyên truyền chống phá nhà
nước CHXHCNVN?
Phần buộc tội này gồm có hai yếu tố, có thể tạm nói là buộc
tội có điều kiện. CSVN buộc tội ở phần đầu: “Nếu
thực sự đã “có nguồn tiền cung cấp từ nước ngoài cho Dòng Đồng công”, thì CSVN
sẽ gán ghép cáo buộc ở phần sau là ”nhằm mục đích chống phá nước CHXHCNVN”.
Điều này có nghiã là nếu chứng minh được Dòng Đồng công không có nguồn tiền
viện trợ từ nước ngoài, thì Dòng Đồng công, do Linh mục Trần đình Thủ quản
nhiệm, sẽ không bị gán cho cái tội chống phá nhà nước CHXHCNVN.
Vì lẽ đó, điều quan trọng là phải giải thích nguồn tiền ở
đâu mà ra mà Dòng Đồng công đã mua gạo dự trữ và thực phẩm nuôi ăn cho hơn 100
ngườì trong nhà Dòng. Cái khổ là Linh mục Trần đình Thủ, với cương vị là Tổng
Giám đốc Dòng, chỉ biết mọi việc một cách tổng quát, không rõ được chi tiết của
từng sự việc, không biết về kế toán, sổ sách - chi thu, nên không thể trả lời
những câu hỏi hóc búa đầy cạm bẫy của công an điều tra xét hỏi, và ngoài câu
trả lời một cách rõ ràng và chắc nịch rằng “Tôi vô tội”” thì ngài đã bị lúng
túng khi trả lời những câu hỏi của công an rằng làm sao để chứng minh vô tội
khi chứng cớ trước mắt cho thấy nhà Dòng có quá nhiều gạo, tại sao lại phải mua
nhiều gạo như vậy, nguồn tiền ở đâu ra để mua gạo và thực phẩm nuôi ăn cho mọi
người sinh sống trong nhà Dòng.
Tôi đã nói với vị Thày rằng đó chỉ là những nguyên tắc và kỹ
thuật thẩm vấn, vấn đề của chúng ta là phải thuyết phục được bọn công an, kiểm
sát viên và Hội đồng xét xử của Tòa án bằng chứng minh một cách cụ thể bằng
giấy tờ, sổ sách, chứng cớ nguồn tiền ở đâu ra để mua gạo và thực phẩm ăn uống
hàng ngày cho khoảng trên 100 tín hữu trong nhà Dòng, chứ không phải chỉ trình
bày, chỉ nói lý lẽ một cách qua loa, đơn giản như chúng ta nói chuyện với nhau
mà không có chứng minh cụ thể nào cả.Để tìm hiểu làm sao nhà Dòng có nhiều tiền
để mua dự trữ gần 6 tấn gạo như vậy, Thày đã dẫn một vị quản gia phụ trách về
canh tác hoa màu của Dòng Đồng công tại Thủ đức, đến gặp tôi để giải thích và
chứng minh cụ thể bằng sổ sách, giấy tờ.
Sự thật là với số diện tích đất đai thuộc sở hữu của Dòng
Đồng công tại Thủ đức, họ đã canh tác luân phiên các loại thực phẩm như các
loại rau, hành, số tiền đó dùng để mua gạo, thực phẩm, cộng thêm khoản tiền
đóng góp chi phí ăn ở của khoảng 100 tín hữu Dòng Đồng công thay phiên nhau đến
nhà Dòng mỗi tháng để học giáo lý, tổng số tiền thu nhập chia cho tiêu chuẩn
bình quân nuôi ăn mỗi đầu người mỗi ngày, đủ cho tiền mua gạo và thực phẩm nuôi
ăn hàng ngày cho mọi người, từ sự gỉải thích, từ sổ sách kế toán, tôi mới có cơ
sở rõ ràng và minh bạch để viết bản biện minh giải trình nguồn tiền mua gạo và
thực phẩm nuôi sống mọi ngươì trong nhà Dòng hàng ngày là do việc tự canh, tự
túc, tự cường của nhà Dòng và các tín hữu cùng chung góp công, góp của, không
phải là do nguồn tiền từ nước ngoài trợ giúp.Khi không có cơ sở chứng minh Dòng
Đồng công đã nhận tiền của nước ngoài thì cũng đương nhiên không có tội chống
phá nhà nước CHXHCNVN.Với bản tự biện minh này, công an và Viện kiểm sát cũng
đã rút bỏ phần buộc tội Cha Trần Đình Thủ của Dòng Đồng công nhận tiền từ nước
ngoài để hoạt động chống phá nước CHXHCNVN.
F/ Lời thú tội của
Cha bề trên Dòng Đồng công tại Tòa án
Linh mục Trần đình Thủ được chuyển từ trại giam khám Chí Hoà
về trại giam Phan đăng Lưu tọa lạc tại góc đường Lê quang Định - Phan đăng Lưu.
Kể từ đây, vị Thày không còn được phép thăm nuôi Cha nữa.CSVN công bố sẽ đưa
Cha bề trên Trần đình Thủ ra xét xử tại Tòa án Sơ thẩm Saigon tọa lạc tại số
134 đường Công lý, tức Tòa án Saigon cũ, vào ngày 27/10/1987 và ông Nguyễn đăng
Trừng là bào chữa viên biện hộ cho vụ án này. Xin được giải thích rằng cho đến
năm 1991, Việt nam mới có tổ chức Luật sư. Trước thời gian này, những người
hành nghề Luật sư được gọi là Bào chữa viên nhân dân, không được mở văn phòng
riêng, tất cả các Bào chữa viên thành phố Saigon đều hoạt động chung tại một
văn phòng, gọi là Phòng Bào chữa viên nhân dân, do ông Triệu quốc Mạnh là
Trưởng Đoàn và Nguyễn đăng Trừng là Phó đoàn Bào chữa viên. Khi người dân cần
có bào chữa viên trợ giúp tại Tòa cho mình hoặc cho thân nhân thì đến phòng bào
chữa làm thủ tục đăng ký, nhưng không được tự do chọn lựa Bào chữa viên theo ý
muốn, mà Bào chữa viên sẽ được Đoàn bào chữa chỉ định luân phiên. Theo họ, cách
tổ chức như vậy để nhằm tránh trường hợp người thì có quá nhiều thân chủ, người
thì có ít thân chủ, hoặc không có thân chủ. Giai đoạn này đã xảy ra tình trạng
có Bào chữa viên mà không được cảm tình của Trưởng và Phó đoàn thường phải nhận
những hồ sơ rẻ tiền hoặc khó khăn. Toà án Saigon được xây dựng từ thời Pháp
thuộc, theo hình chữ U ngược, vụ án được xét xử suốt 03 ngày từ 27/10/1987 đến
30/10/1987. Đồng bào đến tham dự phiên Toà đông nghẹt, không riêng gì các giáo
dân Thiên chúa giáo, mà cả các Phật tử, các phóng viên báo chí trong và ngoài
nước, đứng chật cả lối đi trên thềm Toà án ra đến ngoài sân nơi đậu xe, Toà án
mắc loa phóng thanh ra ngoài sân Toà để ngươì dân được nghe rõ.Cha bề trên đã
hoàn toàn phủ nhận mội tội trạng do Viện kiểm sát nhân dân (Công tố viện) buộc
tội, Toà án đã nói là Cha ngoan cố, phủ nhận mọi tội trạng, nhưng Cha không thể
nào chối cãi rằng chính Cha đã xác nhận phạm tội trong thời gian Công an và
Viện kiểm sát tiến hành điều tra, Cha cho biết chưa bao giờ thú nhận phạm tội
gì cả vì Cha không hề phạm tội, Toà án nói Cha không thể ngoan cố chối cãi tội
lỗi, và để chứng minh, Toà án đã cho bật cái máy thu băng lên, mọi người trong
phòng xử án, các tín hữu Dòng Đồng, các thông tín viên báo chí trong và ngoài
nước, đứng đầy cả sân Toà, mọi người đều nghe rõ từng lời nói của Cha bề trên,
âm thanh từ loa phóng thanh phát ra đúng là giọng nói của Linh mục Trần đình
Thủ, rằng Cha hoàn toàn thú nhận đã cố tình viết trong các tài liệu dạy giáo lý
cho tín hữu những lời lẽ tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCNVN.
G/ Linh mục Giám đốc
Dòng Đồng Công bị gài bẫy
Căn cứ vào lời thú tội được ghi âm trong băng Cassett, “bị
cáo” Trần đình Thủ đã bị tuyên án tù chung thân. Sau đó, bản án được giảm xuống
còn 20 năm tù ở tại phiên Tòa Phúc thẩm. Mọi người đều ngạc nhiên không hiểu lý
do gì ngài lại nói như thế, người thì đưa ra giả thiết là vào thời điểm đó, có
lẽ ngài đã bị chích thuốc để mất kiểm soát lý trí, phải nghe theo lời bọn công
an điều tra xét hỏi tại trại giam Phan đăng Lưu.
Các tín hữu Dòng và các tín đồ Thiên chúa giáo không thể có
phản ứng gì cả, khi họ nghe rõ ràng chính miệng Cha bề trên Dòng Đồng Công xác
nhận tội trạng, và đó cũng là lý do tại sao các tín hữu Dòng Đồng Công tại Việt
nam nói chung, và tại Thủ Đức nói riêng, đành phải im lặng, không có hành động
tranh đấu, hoặc chống đối nhà cầm quyền CSVN.Thắc mắc của các tín hữu Dòng Đồng
công cũng là thắc mắc của riêng tôi, tại sao Cha bề trên Dòng Đồng công lại
nhận tội một cách vô lý như thế được, nếu Toà án CSVN cố tình xử oan, xử sai
thì cứ mặc họ, mình không có tội thì cứ việc nói vô tội, người Thiên chúa giáo
luôn có câu nói “Chúa thử thách các con của Người“ thì hãy cứ để cho Chúa thử
thách, cứ làm theo ý Chúa, Chúa xoay chuyển tới đâu thì mình phải chịu tới đó,
phải tuân theo ý Chúa. Tại sao Cha lại nhận tội như vậy?
Sau khi bản án trở thành chung thẩm, vị Thày được phép thăm
nuôi Cha và được nghe Cha kể lại sự thật rằng sau khi bị di chuyển từ nhà tù
Chí Hoà về trại giam Phan đăng Lưu, một ngày nọ, Cha bị công an chấp pháp gọi
lên phòng thẩm vấn, CSVN gọi là Phòng điều tra xét hỏi, tên công an đã để sẵn
một máy thu băng, và đưa cho Cha bản tự khai, rồi nói với Cha rằng đây là bản
tự khai của ông, tôi đã viết sẵn, ông đọc kỹ từng chữ, từng câu, và sau khi đọc
xong, nếu ông đồng ý thì ký tên vào phần cuối tờ giấy, nếu không đồng ý với lời
lẽ viết trong bản tự khai, ông có quyền không ký.Cha bề trên cầm xấp giấy đã
được viết sẵn, lấy mắt vừa nhìn, vừa đọc thầm trong miệng bản khai, tên công an
nói: „ông đọc như thế thì chỉ có một mình
ông nghe thôi, ông phải đọc to tiếng lên để tôi và ông cùng nghe một thể“.
Thế là Cha đành phải bắt đầu đọc lớn tiếng: „Lời thú tội...“
Khi Cha bắt đấu đọc thì cũng là lúc tên công an bật máy thu
băng để ghi âm lời đọc của Cha. Sau khi đọc xong, tên công an tắt máy thu băng.
Cha trả lại xấp giấy tự khai cho tên công an và nói: „Bản ghi Lời thú tội này không đúng, tôi không đồng ý!“ Và ngài đã
không ký tên vào bản khai.
Tên công an chỉ nhếch miệng cươì, không nói gì, và trả Cha
về lại phòng giam. Sau khi phiên toà kết thúc, Cha mới hiểu ra rằng khi bọn
Công an nói Cha đọc bản tự thú tại phòng thẩm vấn, chúng đã tiến hành một kế
hoạch thâm độc đưa Cha vào cái bẫy, chúng thu băng lời nói của Cha khi đọc Bản
tự thú tội do chúng viết sẵn, và Toà án, Viện kiểm sát nhân dân đã sử dụng cuộn
băng ghi âm lừa bịp này để kết tội Cha bề trên.
Sau đó, vị thày có đến gặp tôi, cho biết có thể đây là lần
sau cùng đến nhà tôi, vì Thày sẽ tìm đường vượt biên ra nước ngoài, và các tín
hữu ở ngoại quốc cũng đã biết tin Cha bị bắt và đang nhờ các cơ quan quốc tế
can thiệp. Dù vậy, là ngươì hiểu rõ bản án và kế hoạch thâm độc của nhà cầm
quyền CSVN cố tình buộc tội oan, và ban hành bản án sai pháp luật do chính họ
đặt ra, tôi đã viết hai văn bản kêu gọi Hội bảo vệ nhân quyền quốc tế và Hội ân
xá quốc tế, giao cho Thày để chuyển ra ngoại quốc.Một thời gian ngắn sau đó,
qua tin tức của một tín hữu tại Giáo xứ Bắc hà, tôi được biết tin Thày đã vượt
biên và đã đến bờ tự do tại Hoa Kỳ.
Linh mục Trần đình Thủ đã được trả tự do vào tháng 05/1993,
sau gần 6 năm bị giam giữ, tôi cho rằng có hai lý do, mà phần chính yếu là vì
các giáo dân Thiên chúa giáo thuộc Dòng Đồng công trong nước đã giữ im lặng,
không tranh đấu, chống đối nhà cầm quyền, và lý do thứ hai là do công lao của
các tín hữu Dòng Đồng công tại hải ngoại đã vận động các tổ chức quốc tế can
thiệp với nhà cầm quyền CSVN để Cha được phóng thích.
Nhận định
1/ Vụ án Linh mục
Tadeo Nguyễn văn Lý: Vụ án này bắt nguồn từ cơ sơ nào?
Đó là chính sách của Đảng và Nhà cầm quyền CSVN tước đoạt
đất đai thuộc sở hữu của giáo hội Thiên chúa giáo, thực hiện qua hành vi lợi
dụng chức vụ và quyền hạn của các viên chức chính quyền từ địa phương cơ sở lên
tới cấp thành phố tỉnh Thừa thiên. Đây là một tội phạm hình sự được qui định
tại phần các tội danh về Tư pháp.Nếu Đảng và nhà cầm quyền CSVN các cấp thực
hiện chính sách tôn trọng quyền sở hữu tài sản của nhân dân và giáo hội, hoặc
giải quyết khiếu nại chính đáng đòi đất đai bị chiếm dụng của giáo dân Nguyệt
Biều, đúng như qui định của Hiến pháp, thì linh mục Nguyễn văn Lý và ngươì dân
giáo xứ Nguyệt Biều đã không phải tranh đấu đòi hỏi quyền lợi bị thiệt hại, và
cũng sẽ không có vụ án Linh mục Tadeo Nguyễn văn Lý. Để chiếm được đất đai, nhà
cầm quyền CSVN đã phải xử dụng bạo lực trấn áp bằng những hành vi bắt bớ, chủ
trương làm sai lệch hồ sơ vụ án của công an, Viện kiểm sát và Toà án, đương
nhiên dẫn đến một bản án oan và sai pháp luật, điều này cũng là tất nhiên, vì
một quốc gia không có tự do và dân chủ thì cũng không thể có công lý.
2/ Vụ việc tại Giáo
xứ Kế Sung xảy ra tại Tổng giáo phận Huế, cũng đã có một hậu quả tương
tự như vụ án Linh mục Tadeo Nguyễn văn Lý, cũng do mục tiêu chiếm đoạt đất đai
của giáo xứ.
3/ Riêng đối với vụ
án Dòng Đồng Công, các linh mục và giáo dân Dòng không hề có phản ứng
chống đối Đảng và nhà cầm quyền các cấp, mặc dù đất đai tại tỉnh Lâm Đồng đã bị
chiếm dụng từ những năm đầu của cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, nhưng CSVN
cũng không tha, họ muốn tước đoạt nốt phần đất đai còn lại tại huyện Thủ đức,
thuộc thành phố Saigon, ác độc hơn nữa, họ đã lần lượt áp đặt cho Cha bề trên
Dòng tội danh xấu xa gian thương, rồi nhận tiền từ nước ngoài để hoạt động
chống phá Đảng và nhà nước, và bày mưu kế thâm độc bắt Cha phải đọc lời nhận
tội do chúng viết sẵn, để bịt miệng nhân dân, tín hữu Dòng Đồng công và dư luận
quốc tế. Chỉ tiếc rằng cho đến nay, vẫn có những kẻ may mắn chạy thoát khỏi
Việt nam trước khi bộ đội Cộng sản vào đến Saigon, chưa có một ngày nào sống
chung với Cộng sản, không hiểu Cộng sản là gì, chỉ hiểu lờ mờ về Cộng sản qua
đống sách triết học Mác-Lenin giảng dạy về lý thuyết không tưởng Cộng sản, nên
vẫn còn tâm nguyện trở về hợp tác, hoà hợp hoà giải, xoá bỏ hận thù với Cộng
sản.
Người dân Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo và toàn thể nhân dân
trong nước cũng đã thừa hiểu, hiện nay, CSVN ra sức đàn áp tôn giáo, bóp nghẹt
nhân quyền dã man bằng mọi hình thức, thử hỏi bọn CSVN đã thực sự hoà hợp, hoà
giải được với các trí, nông, công, thương, với các giáo hội, các hội đoàn, Đảng
phái chính trị, với nhân dân trong trong nước hay chưa? Câu trả lời là
chưa! Vậy thì việc kêu gọi hoà hợp, hoà giải với cộng đồng người Việt hải
ngoại, những ngươì đã phải trốn chạy vì không chấp nhận bọn chúng, chỉ là một
sự lừa bịp trằng trợn, chỉ đánh lưà được những kẻ thơ ngây về Cộng sản.
Đã bao năm qua, Vẹm vẫn là Vẹm, không có gì thay đổi.
Phúc Linh
Nguồn: Ba Cây Trúc