"Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh." (Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận)

Bàn về văn minh người Việt?



Kim Huỳnh và Trần Hoàng Tuấn

[Bản này có thêm chi tiết về khác quan niệm văn minh ở Phưong Tây và Phương Đông so sánh với bản trên BBC Vietnamese.]The English version can be found at http://www.tuoitrenews.vn/cmlink/tuoitrenews/city-diary/who-is-more-civilized-vietnamese-or-westerners-1.73447

Người Việt và người phương Tây hiểu chế độ phụ hệ, thịt chó, karaoke và giao thông hỗn loạn ra sao? Người Việt và người Tây nghĩ gì về nhau, và về bản thân mình?

Stan sống ở tầng trên cùng trong khu căn hộ của tôi ở Việt Nam và anh được coi là một người thành đạt. Trông anh cao ráo và ưa nhìn. Anh đã sống ở nhiều nước và là một bác sĩ kiêm nhà quản lý được đánh giá cao. Stan không đến Việt Nam để kiếm tiền mà để giúp người Việt, vì thế anh kì vọng rất nhiều.

Mặc dù công việc của Stan thành công mỹ mãn nhưng anh vẫn thường nản lòng khi về đến căn hộ của mình. Mùi hôi thối tỏa ra từ ống dẫn trong nhà tắm, điều hòa nhiệt độ thường xuyên hỏng và hơn nữa là anh không bao giờ bắt được kênh BBC World trên TV.

Hầu hết những người sống cùng khu này đều gặp phải vấn đề tương tự, nhưng mà từ lâu mọi người đã từ bỏ ý định thay đổi gì đó. Đơn giản là chúng tôi chấp nhận những mùi mẽ ấy, thời tiết nóng điên người và mọi thứ không được sửa sang.

Nhưng Stan thì khác: anh ấy nghĩ rằng đó là vấn đề nguyên tắc. Anh trả tiền thuê nhà theo giá quốc tế với suy nghĩ rằng sẽ nhận được dịch vụ và chất lượng theo chuẩn quốc tế. Hơn nữa, Stan cũng tin rằng bằng việc giữ tiêu chuẩn của mình, anh cũng đang giúp Việt Nam. Làm sao mà người Việt có thể đạt được chuẩn quốc tế ở bất kì lĩnh vực nào đó nếu ai cũng từ bỏ kì vọng của chính mình?

Đôi lúc Stan đúng. Sau khi khăng khăng là mùi trong nhà tắm không thể chấp nhận được, người ta đã cử một nhóm thợ ống nước đến và rồi vấn đề cũng được giải quyết theo hướng có lợi cho tất cả mọi người (bao gồm cả việc thêm một loạt bồn tắm cho khu nhà với hệ thống cấp và thoát nước đồng bộ).

Nhưng đôi khi tính cố chấp của anh chỉ khiến anh thêm thất vọng. Đơn giản là anh không thể có một chiếc điều hòa nhiệt độ mới trong khi cái anh đang dùng có thể được sửa lại. Tín hiệu BBC ở phòng anh chập chờn là vì đường dây cáp loằng ngoằng dẫn lên tầng áp mái nơi anh ở (tôi sống ở tầng trệt rẻ tiền hơn nên xem được BBC thoải mái không có vấn đề gì, việc này khiến anh càng thêm tức tối). Vì chuyện nọ chuyện kia cùng những vấn đề cố hữu ở đây mà mối quan hệ giữa Stan và quản lý khu nhà ngày càng căng thẳng và xấu đi trông thấy.

Nhưng Stan cũng xây dựng được một số mối quan hệ thân tình với những người làm trong khu nhà, như chàng trai tên Sơn trẻ trung nhanh nhẹn. Hai người họ thường gọi nhau là “Mr Stan” và “Mr Sơn” và thường thảo luận với nhau về đồ ăn Việt, thời tiết và Giải ngoại hạng. Tuy nhiên, chưa bao giờ họ là (hay cảm thấy là) bạn hay người ngang hàng.

Stan hướng dẫn Sơn cách ngồi thẳng lưng trên ghế khi sử dụng máy vi tính, anh bảo Sơn rằng chiếc mũ bảo hiểm nhãn Manchester United của cậu chẳng có công dụng bảo vệ gì hết, không khác gì cái hộp nhựa. Và nhất là Stan còn giật thuốc lá ra khỏi miệng Sơn và ném đi khi anh bắt gặp Sơn hút thuốc.

Gần đây, tôi có cơ hội hỏi Sơn về cảm giác của cậu về cách mà Stan đối xử với cậu. Tôi bảo: “Anh ta hành xử như thể cậu là một đứa trẻ không thể tự đưa ra quyết định được vậy.”

Như lẽ thường, Sơn được tôn trọng khi đưa ra phản ứng của mình. “Cả lời nói và cách ứng xử của Stan đều đúng. Tư thế của tôi sai nên lưng tôi bị đau, tôi thực sự nên mang một chiếc mũ bảo hiểm tốt hơn và lái xe cẩn thận hơn, và ai cũng biết là hút thuốc lá có hại cho sức khỏe nữa. Nhưng đôi lúc tôi không thể tự nhắc mình những điều ấy. Tôi rất biết ơn những người như Stan. Anh ấy tốt và là người văn minh, anh ấy chỉ muốn tốt cho tôi.”

Nhưng tôi cũng biết rằng, mặc dù phóng khoáng, nhưng Sơn vẫn không ưa Stan vài điểm. Tôi biết điều này vì Sơn là người tự tôn và yêu nước; cậu am tường lịch sử Việt Nam, văn hóa, ca dao tục ngữ và cảm thấy tự hào khi thảo luận những điều đó với người sống trong khu nhà này (đặc biệt là những ai biết chút tiếng Việt). Tôi biết cậu giận dỗi vì cuối mỗi tháng Sơn lại cộng  thêm 2,000 đồng vào hóa đơn tiền điện của Stan cho mỗi điếu thuốc bị vứt đi.

Mối quan hệ của Sơn và Stan cho thấy sau hàng bao thế kỉ tiếp xúc với phương Tây và hiện giờ chúng ta đang sống trong một thế giới liên kết và toàn cầu hóa cao độ vẫn còn một hố sâu ngăn cách giữa Việt Nam và phương Tây.

Tôi đã cố xây dựng diễn đàn ở Đại học Quốc gia Hà Nội và nhà sách Bookworm để thảo luận xem “Người Việt có cần văn minh hơn…hoặc là mọi người khác?” không với mục đích làm cầu nối và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa người Việt và người nước ngoài.

Tìm hiểu văn minh Phương Tây

Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc xem xét nền văn minh và sự văn minh nghĩa là thế nào. Văn hóa và văn minh có mối liên hệ rất gần gũi. Tuy nhiên, nếu như văn hóa được xem là nhân dạn và tính cách của một xã hội thì văn minh có thể được coi là dân trí và đạo đức của xã hội ấy.

Ở phương Tây, văn minh đồng nghĩa với hiện đại hóa cho nên trở nên việc văn minh là tiến từ đói khổ lên giàu có, từ tĩnh thành động, từ định hướng nhóm sang định hướng cá nhân, từ bó buộc trong phạm vi địa phương sang những biên giới phổ quát hơn.

“Sứ mệnh khai hóa văn minh” của thực dân Pháp ở Đông Dương đã mặc nhiên cho rằng tư duy và giá trị Tây phương là ưu việt hơn tất cả những chủng người khác xét về dân tộc và tôn giáo. Suốt thế kỉ 19 và cho đến tận đầu thế kỉ 20 các hình thức của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học như khoa học nghiên cứu sọ người, các phép đo đạc sọ, và thuyết ưu sinh (khoa học ứng dụng hay phong trào sinh-xã hội học khuyến khích sử dụng các biện pháp cải thiện nguồn gen của loài người), thúc đẩy tư tưởng cho rằng người da trắng tiến hóa hơn các chủng người khác. Đồng thời, đạo Thiên chúa cho rằng người phương Tây có mối liên hệ với Chúa và trách nhiệm truyền đạt lời răn của Người cho nhân loại để có thể được cứu rỗi. Trách nhiệm ấy theo cách hiểu của người Anh và Mỹ là phần mà người da trắng phải gánh vác.

Gần đây, sự ưu việt của nền văn minh phương Tây không còn bị bó trong khung về chủng tộc và tôn giáo nữa mà được định hình bởi sự phát triển. Trong Chiến tranh Việt Nam, cố vấn an ninh quốc gia kì cựu của Mỹ W. W. Rostow đã đưa ra mô hình phát triển kinh tế của mình như là một bản tuyên ngôn chống cộng.[i]Theo Rostow, tất cả các xã hội phải tiến triển theo nhiều giai đoạn từ sinh sống tự cung tự cấp, đến sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và cuối cùng là dịch vụ phục vụ con người tích hợp trong một nền kinh tế toàn cầu. Các cá nhân sinh sống trong những xã hội đang phát triển này được hưởng lợi từ tính nhu động xã hội tăng và sức tiêu thụ cao hơn.   vbRostow mô tả một đất nước trải qua những giai đoạn này giống như một chiếc máy bay đang chạy trên đường băng trước khi cất cánh và rồi vút lên trời cao vô tận.

Quan niệm của phương Tây về văn minh vì thế tập trung vào sự tiến lên và nhu cầu bỏ lại đằng sau những tập tục cũ, cách nghĩ cũ và giá trị cũ. Hơn thế, chỉ có một lối mòn duy nhất để trở nên văn minh mà tất cả những người Việt Nam như Sơn phải bước theo chân những người phương Tây như Stan nếu họ muốn tiến tới và sánh ngang với thế giới.

Tìm hiểu văn minh Việt Nam

Người Việt hiểu về văn minh khác người phương Tây, nhấn mạnh đến mở rộng thay vì tiến lên. Đáng kể nhất là cuốn Đại học của Khổng Tử đã đưa ra một mô hình phát triển cá nhân và xã hội mà nhiều người Việt ngày nay quen thuộc nhờ ảnh hưởng gia đình, bạn bè, phim ảnh và văn học Trung Hoa.

Tiến trình văn minh được mô tả là một tập hợp các đường tròn rộng dần bắt đầu với việc phát triển bản ngã (tu thân) sau đó mở rộng ra đến điều hành gia đình (tề gia).[i] Gia đình mẫu mực làm nền tảng cho việc trị quốc và cuối cùng là bình thiên hạ.

Theo mô hình này của Khổng Tử, việc mở rộng dần dần cho phép duy trì tính liên kết xã hội trong khi có biến. Điều này vô cùng quan trọng bởi lẽ một quốc gia-dân tộc sẽ bất trị khi đơn vị gia đình nòng cốt bị xói mòn. Tiếp đến, sẽ không thể đạt được thành công trong một gia đình nếu không có người đứng đầu đức hạnh, tiết chế.

Trong khi cá nhân ở phương Tây tìm kiếm sự độc lập thì cá nhân ở phương Đông lại tìm kiếm sự hòa nhập. Ở thời của Khổng Tử điều đó đồng nghĩa với nuôi dưỡng năm mối quan hệ chủ chốt giữa chủ-tớ, cha-con, chồng-vợ, anh-em và bằng hữu.

Tất nhiên, những quan niệm khác nhau về văn minh kể trên đều có những ưu và nhược điểm khác nhau. Lý tưởng phát triển Á châu là bảo thủ hơn phương Tây. Truyền thống phụ quyền vẫn còn ảnh hưởng lớn ở châu Á và người ta không dễ dàng chấp nhận những người lãnh đạo hiện đại như thủ tướng Đức Angela Merkel (không có con) hay thủ tướng Australia Julia Gillard (không chồng và không con). Đồng thời, quan niệm văn minh phương Đông tạo cơ sở vững chắc hơn cho việc chỉ trích những hành xử thiếu đạo đức của những nhân vật quyền lực như Bill Clinton hay Dominique Strauss Kahn. Tư tưởng ấy cũng có thể đóng vai trò như phanh hãm đối với chính sách đối ngoại phiêu lưu như cuộc chiến tranh xâm lược Iraq 2003 với lý lẽ rằng bình định thiên hạ là bất hợp lý và liều lĩnh khi bản thân nước đó còn hỗn loạn.
Việc công nhận rằng nền văn minh phương Tây và Á Đông đang thay đổi từng ngày và phần lớn những thay đổi ấy là kết quả của sự giao thoa qua lại là rất quan trọng.[i] Tuy vậy, đồng thời, người Tây hay Á Đông đều chịu một phẩn ảnh hưởng nào đó.

Thử xem cách người ta nuôi dưỡng trẻ em ở xã hội phương Tây Ăng-lô làm ví dụ. Trong cuốn sách mới xuất bản gần đây so sánh cách làm cha mẹ ở các châu lục khác nhau, Pamela Druckerman đã chỉ ra rằng “người Mỹ mặc định đó là công việc thúc đẩy, khuyến khích và mang trẻ con từ giai đoạn phát triển này sang giai đoạn kế tiếp. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng làm tốt bổn phận cha mẹ thì những đứa trẻ sẽ phát triển càng nhanh.”[ii]

Tất nhiên là các bậc làm cha mẹ Á Đông cũng thúc đẩy con họ đạt được thành tích, nhưng không phải theo cách tương tự. Ở cổng vào Văn Miếu, Hà Nội có thể thấy rõ câu châm ngôn nổi tiếng mà gần như người Việt nào cũng được học từ tấm bé: tiên học lễ, hậu học văn. Nói một cách khác, trẻ em phải kính trọng di sản và những thứ quanh chúng – cha mẹ, gia đình, cộng đồng và đất nước – trước khi theo đuổi quyền lực và học vấn cho bản thân. Giành được quyền lực và học vấn quá nhanh sẽ dẫn đến lạm dụng những thứ đó.

Trên thực tế, tốc độ phát triển nhanh như vũ bão ở Việt Nam có đang đe dọa đến tính cố kết xã hội và nền tảng đạo đức hay không là vấn đề được đặt ra nhiều hơn bao giờ hết. Những chỉ trích về sự bất hiếu không còn là mới nữa; bây giờ còn nhiều người lo ngại về tình trạng vô cảm, tính cộng đồng suy giảm, tính hiếu thắng, các cậu ấm cô chiêu, ỷ thế và một thế hệ 9x nổi loạn.

Và vì thế, những diễn đàn tôi mới tham gia gần đây đều đồng nhất quan điểm cho rằng không có nền văn minh nào là hoàn hảo và rằng hiểu biết những cách sống khác nhau có thể giúp nâng cao cách sống của chính chúng ta.

Với câu hỏi “Người Việt có cần văn minh hơn …hoặc là mọi người khác?” thì mức độ đồng thuận thấp hơn. Với các vấn đề mà người này bất đồng với người kia thì không hẳn là vì khác biệt chủng tộc hay quốc gia. Không phải người Việt nào cũng phản ứng giống nhau và người phương Tây cũng vậy. Tuy thế, quan điểm của mọi người chủ yếu xoay quanh lập trường tiến lên của Stan và mở rộng của Sơn đối với các vấn đề gây tranh cãi như gia trưởng, ăn thịt chó, karaoke và ách tắc giao thông. Một số tranh luận mạnh mẽ nhất từ cả hai phía được tóm tắt dưới đây:

Gia trưởng

Quan điểm của Stan

Theo tôi, đầu tiên là phụ nữ Việt cần được giải phóng khỏi những áp bức ở nhà và cả ngoài xã hội.

Niềm tin cho rằng chỉ đàn ông mới có thể nối dõi tông đường khiến người phụ nữ Việt bị phân biệt đối xử ngay từ trước khi lọt lòng mẹ. Đây không chỉ là tàn tích từ thời phong kiến Nho giáo của Việt Nam. Có thể thấy rõ điều này qua tỉ lệ trẻ sơ sinh nam nữ chênh lệch hiện nay, và nhà nước đã phải cấm bác sĩ tiết lộ giới tính thai nhi cho các cặp vợ chồng có thai.
Người vợ hầu như bị phụ thuộc toàn bộ vào chồng. Tôi gần như không bao giờ thấy đàn ông làm việc nhà và thường là ít hoặc không chịu trách nhiệm nuôi dưỡng con cái.

Ngoài xã hội, tôi thấy phụ nữ phải quét tước, mang vác và bán hàng, làm bất cứ việc gì để trợ giúp gia đình; trong khi đàn ông ngồi hàng giờ uống bia, chè và cà phê, nói chuyện bóng đá, chơi bài hay chơi cờ. Những người phụ nữ học vấn cao mà tôi biết cũng không khá khẩm hơn, họ cũng phải đối mặt với áp lực và thách thức trong công việc chuyên môn rồi về nhà vẫn phải hoàn thành tất cả những nghĩa vụ truyền thống trong gia đình.

Vì thế, tôi cho rằng không gì khiến xã hội Việt văn minh hơn là dành tự do và công bằng hơn nữa cho phụ nữ Việt.

Quan điểm của Sơn

Chỉ đơn giản là vì phụ nữ Việt không giống phụ nữ phương Tây không có nghĩa là họ bị áp bức. Ở Việt Nam phụ nữ cũng được tôn vinh như anh hùng (Hai Bà Trưng và Bà Triệu), nhà thơ (Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan) và những vị thần thánh (thánh mẫu). Việt Nam có Hội Phụ nữ hoạt động mạnh và rộng khắp, đồng thời là nước có tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội lớn hơn cả Anh và Mỹ.[iii]

Dù xã hội Việt có gia trưởng chăng nữa thì cũng không hẳn là xấu. Không phải cái gì thuộc về gia trưởng cũng xấu và cần loại bỏ ngay lập tức. Người đàn ông và đàn bà Việt có những vai trò khác nhau bởi vì về cơ bản họ có những mong muốn, phẩm chất, và tính khí khác nhau. Sự khác biệt này không hẳn là đồng nghĩa với sự nô dịch; mà hơn hết, sự tổng hòa đàn bà và đàn ông, âm và dương, là nền tảng để xây dựng cộng đồng hòa hợp. Vì thế trước khi phá bỏ hoàn toàn cấu trúc gia đình phụ hệ là nền tảng cho văn hóa Việt bao thế kỉ nay thì chúng ta cần xem xét thận trọng xem hành động đó có ý nghĩa như thế nào đối với các giá trị gia đình vốn tồn tại làm nền tảng cho xã hội Việt Nam.

Ăn thịt chó

Quan điểm của Stan

Người văn minh không ăn thịt chó vì chúng gần gũi với con người. Chó là “người bạn thân cận nhất của con người.” Nhiều người trong chúng ta lớn lên cùng với loài vật này và xem chúng như là anh chị em. Khi chúng ta lập gia đình, chúng ta thường nuôi chó như “những đứa trẻ có lông” của chúng ta.

Là động vật có vú ăn thịt, chó là loài rất gần gũi với con người. Thịt của chúng “ô uế” vì rằng chúng ăn thịt của các loại động vật khác. Ngoài ra, (đây không phải là điều tôi muốn nghĩ đến!), thịt chó thật kinh tởm vì chúng ăn cả phân.

Ở Hàn Quốc người ta vẫn thường đánh chó để giết thịt, nhưng làm thế để làm tăng mùi vị của thịt là rất tàn bạo và cần dừng lại ngay, trong trường hợp không thể cấm việc tiêu thụ thịt chó.

Quan điểm của Sơn

Việc nuôi chó làm thú cảnh không phải truyền thống ở Việt Nam nên người ta cũng chỉ coi chúng như lợn mà thôi, thứ thực phẩm mà người phương Tây tiêu thụ với một ý thức rõ ràng. Mà trên thực tế lợn còn gần gũi với con người hơn chó về nhiều mặt vì lợn đặc biệt thông minh, và tình cảm nữa và các bộ phận của lợn thậm chí còn được dùng để cấy ghép cho người.

Đánh chó trước khi đem giết thịt là vô nhân đạo. Nhưng mà người phương Tây nhốt những con vật ấy cả đời trong những cũi bé tí trong những trại tập trung thì cũng vô nhân đạo chẳng kém.

Tất nhiên với nhiều người, ăn chay là cách ăn duy nhất lành mạnh và có đạo đức. Đứng từ góc độ đó thì người dân Việt không hẳn là chay tịnh, nhưng vẫn còn tiêu thụ ít thịt và có nhiều tín đồ Phật giáo ăn chay hơn bất cứ nước phương Tây nào.

Bằng việc cho rằng ăn thịt chó là không văn minh, ông đang áp đặt những giá trị riêng lên chúng tôi. Chúng tôi hiểu quá rõ chiến lược văn hóa này; trên thực tế, Trung Quốc cũng đã cố thực hiện điều đó nhiều thế kỉ nay. Người Trung Hoa không thể làm giảm lòng tự hào dân tộc hay làm thui chột bản sắc của chúng tôi, và anh cũng sẽ không làm được điều đó. Vì thế, sự ngạo mạn của anh chỉ phản ánh phong tục tập quán chẳng lấy gì làm văn minh của anh mà thôi.

Karaoke

Quan điểm của Stan

Ở Việt Nam, tôi không sợ gì bằng đi công cán hay dự hội nghị và được mời – hay đúng hơn là bị “ép” – hát karaoke. Điều đó thậm chí còn tồi tệ hơn cả việc xung quanh đầy rẫy những vodka, cognac và gái gọi.

Như thế không phải là tôi không thích nhạc, ngược lại là đằng khác. Vấn đề là ở chỗ karaoke không thực sự là nhạc, kể cả khi hát đúng chăng nữa. Nó giống như ảnh cưới của nhiều người Việt, sắp đặt và chỉnh sửa quá nhiều, không thật, lòe loẹt, khoa trương và ngớ ngẩn. Khái niệm kitsch (tạm dịch là lòe loẹt, giả tạo) có vẻ tương đối lạ lẫm đối với người Việt, nhưng lại rất phổ biến ở phương Tây. Hát karaoke có thể được coi là một biểu hiện của khoe mẽ bởi lẽ đó là hành động giả làm ngôi sao chứ không phải là phát triển kĩ năng và tính sáng tạo cần thiết để trở thành một nghệ sĩ chuyên nghiệp. Nó thổi phồng cái tôi của những kẻ nghiệp dư trong khi tôn vinh cái ăn theo. Nên khi tôi hát hay nghe hát karaoke, tôi thấy nó đúng là kiểu giả tạo và khoe mẽ, thế nên tôi chẳng thích karaoke tí nào cả.

Quan điểm của Sơn

Tiếng Việt với những dấu lên xuống dập dờn rất giàu tính nhạc. Tất cả mọi thứ từ lời chào, đến thơ phú hay thậm chí cả những câu chửi cũng được cất lên như những bài ca khi chúng thoát ra khỏi miệng người nói. Chúng tôi không thấy việc đó có gì sai trái mà trái lại nhà cửa và đường phố tràn ngập lời ca tiếng hát lại rất hay. Ở Việt Nam hát là cách biểu hiện đầy đủ và chân thật những gì trong trái tim và khối óc; karaoke không gì khác là một sự biểu hiện ở mức cao hơn quá trình đó.

Tôi cũng không thích việc có đầy rẫy gái gọi và những cách hành xử thô lỗ ở các quán karaoke, nhưng tôi cũng biết là ở phương Tây cũng chẳng thiếu nạn mại dâm, kích dục và bất lịch sự. Trước tiên người Tây nên tập trung vào việc là hình mẫu cho chính xã hội của mình trước khi áp đặt đánh giá lên người khác.

Vậy nên nếu người Tây cho rằng ai đó hát hết sức bình sinh ở chốn công cộng là điên rồ thì chính họ mới là có vấn đề. Nếu người Tây không thể thưởng thức karaoke hay tận hưởng cuộc sống mà không hề nghi ngại thì đó chính là vấn đề của họ. Và nếu người Tây không biết hát thì đó cũng lại là vấn đề của họ.

Giao thông hỗn loạn

Quan điểm của Stan

Nếu nhìn lướt qua giao thông ở Hà Nội hay Sài Gòn thì thấy người Việt đang ngày một kém văn minh. Đường thì càng ngày càng tắc, người đi đường tranh giành nhau từng tấc đường một, họ leo lên cả vỉa hè, đi sai đường, không chú ý đèn đỏ, và chẳng để ý gì đến lối đi cho người đi bộ hay cả người đi bộ. Buổi tối thì càng kinh khủng hơn khi có người say rượu lái xe và những tay hooligan trẻ măng lao ra đường hàng loạt.

Tình trạng thiếu văn hóa giao thông cho thấy Việt Nam ngày càng thịnh vượng không đi cùng với văn minh được nâng lên hay dân trí tăng.

Kinh khủng nhất là trẻ con bị nhồi nhét và để cho ngồi vắt vẻo trên mô tô: lắc lư trong nôi hay yếu ớt trong vòng tay mẹ; được nhấc lên cao để có thể nhìn qua vai bố; hay núp giữa hai chân người lái, thò mũi qua đằng trước. Một xã hội đối xử với trẻ em tệ thế thì không thể văn minh được.

Quan điểm của Sơn

An toàn giao thông là vấn đề lớn với tất cả người Việt. Tuy nhiên, thủ phạm là thiếu vốn và kế hoạch đầu tư thiếu sát thực và tầm nhìn chứ không phải do dân trí.

Mặc dù lộn xộn nhưng giao thông Việt Nam cũng có những điểm kì diệu khiến việc lái xe không đến nỗi kinh khủng lắm. Đôi khi tôi rất ngạc nhiên khi thấy dòng xe cộ lưu thông được (nếu nhìn vào áp lực lên những con đường và cơ sở hạ tầng). Nhưng mọi thứ vẫn đang diễn ra, đôi lúc còn tốt là đằng khác. Nó giống như thể mỗi một người lái xe là một con cá bơi trong một đàn lớn, một thành viên trong dàn nhạc giao hưởng hỗn loạn. Nếu bạn đào sâu hơn thì có thể thấy là giao thông chỉ là một dấu hiệu của dân trí và sự hòa hợp trong xã hội Việt Nam vì đó là lạc hậu và lộn xộn.

Tất nhiên là tôi quan tâm đến trẻ em và tương lai và mong muốn góp lời khuyên để giúp bảo vệ chúng tốt hơn nữa.

Tuy nhiên, điều tôi không bao giờ ủng hộ là quan điểm cho rằng người Việt không quý trọng mạng người như người Tây; hay thậm chí suy nghĩ rằng cuộc sống của người Việt là rẻ rúng và có thể hi sinh mà không cần tưởng niệm hay trả thù. Sự tàn khốc của chất độc màu da cam và vô số ví dụ khác nữa về những vụ giết người hàng loạt và dồn dân mà Việt Nam đã từng gánh chịu trong quá khứ là những hành động hết sức vô đạo đức nếu hiểu theo khái niệm văn minh.

*

Những diễn đàn này còn thảo luận về việc không xếp hàng, sử dụng điện thoại di động cộc cằn, đái bậy, cùng với tập tục kéo “chim” bé trai để thể hiện là chúng được quý ở miền Bắc. Trên thực tế chúng tôi đạt được không nhiều sự đồng thuận về bất cứ vấn đề nào kể trên. Nhưng mục đích của việc thảo luận “Người Việt có cần văn minh hơn…hoặc là mọi người khác?” không nhằm thay đổi quan điểm của mọi người và tạo ra sự đồng thuận mà trên hết là nhằm giúp chúng ta thoải mái hơn với những khác biệt và từ đó hiểu hơn về nhau.

Tiến sĩ Kim Huỳnh là nhà văn Asialink 2012 và giảng viên tại Đại Học Quốc Gia Úc, đã đăng tiểu sử về gia đình mình trong cuốn Where the Sea Takes Us: A Vietnamese-Australian Story (HarperCollins 2008) và là một trong hai chủ bút của cuốn sách The Culture Wars: Australian and American Politics in the 21st Century (Palgrave MacMillan 2009).

Trân Hoàng Tuấn là nhà văn, đồng thời là một dịch giả tự do, quan tâm đến văn chương, dân tộc học, văn hóa của giới trẻ, giới và nhận dạng giới. Hoàng Tuấn đã dịch nhiều bài báo từ các báo lớn và cũng đóng góp cho các tòa báo có uy tín, và hiện đang viết cuốn tiểu thuyết đầu tay về người đồng tính nam ở Việt Nam.

Bản gốc tiếng Việt được bà Hà Thị Thu Hương từ Trung tâm Integrated Culture and Language Studies (ICLS) chỉnh sửa đôi chút và BBC biên tập lại.

[i] W.W. Rostow, The Stages of Economic Growth: A Non-Communist Manifesto(Cambridge: Cambridge University Press, 1960).
[i] David G. Marr, ‘Concepts of “Individual” and “Self” in Twentieth-Century Vietnam’, Modern Asian Studies, vol. 34, no. 4 (1 October 2000): 769–796.
[i] Để biết thêm tư tưởng phương Tây đã ảnh hưởng đến tư tưởng và nghệ thuật ở Việt Nam như thế nào, có thể xem thêm bài viết của Mark Philip Bradley, ‘Becoming “Van Minh”: Civilizational Discourse and Visions of the Self in Twentieth-Century Vietnam’, Journal of World History, vol. 15, no. 1 (31 March 2004): 65–83.
[ii] Pamela Druckerman, Bringing Up Bebe: One American Mother Discovers the Wisdom of French Parenting (New York: Penguin Press, 2012): 82.
[iii] UNDP, United Nations Human Development Report 2010 , Table 4: Gender Inequality Index.http://hdr.undp.org/en/media/HDR_2010_EN_Table4_reprint.pdf