Ngày 30/04/2000, Đức Giáo Tông Gioan Phaolô II tuyên bố
thiết lập lễ Divina Misericordia (Divine Mercy) vào Chúa Nhật II Phục
Sinh. Từ đó phong trào này phát triển rất nhanh ở Việt Nam. Hàng tháng tại
những xứ lớn, dù trưa hay chiều, có đến cả ngàn, cả vạn người tham dự. Lễ này
có nhiều cách gọi trong tiếng Việt: Lòng thương xót Chúa, lòng Chúa xót
thương, lòng Chúa thương xót. Tại Sài Gòn tên gọi “Lòng thương xót Chúa” phổ
biến hơn, nhưng cuốn “Những ngày lễ Công Giáo” của Giáo Phận Sài Gòn thì ghi là
“Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Chúng ta thử xem xét ý nghĩa của những tên
gọi này.
Năm 1931, Thánh Faustina Kowalska được thấy Chúa hiện ra và
được đặt làm sứ giả Chúa để phổ biến lòng nhân từ của Chúa cho nhân loại qua
nhật ký đời tư của chị thánh. Nhật ký này được phổ biến khắp nơi. Sứ điệp này
nhấn mạnh lòng Chúa yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt người tốt kẻ
xấu.
Đức Giáo Tông Gioan Phaolô II muốn mọi tín hữu luôn
kính nhớ lòng yêu thương của Chúa, nên Ngài đặt tên cho lễ này là Divina Misericordia (Divine Mercy).
2. Nghĩa của thuật từ Divina Misericordia
2.1. Divina là
giống cái của divinus, cùng nghĩa với tiếng Anh divine. Nghĩa là tt.
Của / thuộc về (1) _Thiên Chúa, _ thần linh. (2) _ nhà chiêm tinh. (3) _ người
hoàn thiện. (4) _ bậc đế vương.
2.2. Misericordia thì hơi khác với tiếng Anh
mercy. Nghĩa là dt. (1) Lòng trắc ẩn (2) Lòng từ bi. (3) Lòng nhân
từ. (4) Lòng thương xót. Mà tiếng Anh mercy nghĩa là: dt. (1) Lòng thương,
lòng nhân từ, lòng từ bi: For mercy's sake (vì lòng thương). (2) Lòng
khoan dung: To beg for mercy (xin khoan dung, xin dung thứ). (3) Ơn,
ơn huệ. (4) Sự may mắn, hạnh phúc, điều sung sướng: It was a mercy it
did not rain (thật may mà trời không mưa); That's a mercy! (thật
là một hạnh phúc!).
3. Nghĩa
của những chữ „lòng thương xót Chúa“
3.1. Lòng (Nôm),
nghĩa là: dt. (1) Những bộ phận trong bụng của con vật giết thịt, dùng làm
thức ăn (nói tổng quát):Lòng lợn; cỗ lòng; xào lòng gà. (2) (kết hợp
hạn chế) Bụng con người: Ấm cật no lòng; trẻ mới lọt lòng (vừa
mới sinh). (3) Tâm địa, coi là biểu tượng của mặt tâm lý, tình cảm, ý chí, tinh
thần: Đau lòng; bận lòng; cùng một lòng. (4) Chỗ giữa: Lòng
suối; đào sâu vào lòng đất.(5) Trong vòng tay:ôm con vào lòng. (6) Gầm: Lòng
cầu. (7) Tròng: Lòng trắng trứng. (8) Tên cá nhỏ nước ngọt: Lòng
tong. tt.(9) Quanh co: Lòng vòng. trt. (10) Thả dài xuống: Lòng
thòng.
3.2. Thương có
35 chữ Hán, chữ 愴gần nghĩa
trong thuật từ thương xót, chữ này còn có âm là sảng có nghĩa là đt. (1) Xót xa. Pht. (2) Buồn sầu
(cổ văn): Thương nhiên lệ hạ (đau lòng sa nước mắt).
Nghĩa Nôm: đt. (1) Yêu; trìu mến nhiều: Thương
người như thể thương thân. (2) Xót xa: Thương tình. (3) Tổn hại: Nhà
thương.
3.3. Xót (Nôm): đt.
(1) Da non gặp chua hay mặn; ngứa ngáy; xốn: Xót con mắt. (2) Thương sâu
xa: Xót ruột. (3) Tiếc: Xót vì mất tiền. (4) Nhớ: Xót người
tựa cửa hôm mai.
3.4. Chúa (Nôm): dt.
(1) Người đúng đầu cai quản: Vắng chúa nhà, gà bới bếp (tng.); chúa
sơn lâm. (2) Người có quyền như vua: vua Lê chúa Trịnh. (3) Đấng tối cao: Thiên
Chúa. tt. (4) Tài giỏi: Hắn đánh bóng bàn chúa lắm. pht. (5)
Rất, hết sức (nói về mấy loại dở): ông ta chúa ghét thói nịnh bợ.
4. Tìm hiểu về
quan hệ từ “của”
“Của” là liên từ biểu thị quan hệ sở thuộc giữa chính thể
(thành tố chính) với bộ phận của chính thể (thành tố phụ). Trong tiếng Việt,
quan hệ từ không có vai trò bắt buộc như ở nhiều ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, cần
lưu ý:
4.1. Không nên cho rằng giữa chính thể và bộ phận của nó lúc
nào cũng có thể tùy tiện ghép thêm hay giản lược quan hệ từ. Trong chừng
mực nhất định vẫn có sự khác nhau giữa việc có mặt và vắng mặt của quan hệ từ:
- Về mặt ý nghĩa:
Quan hệ từ giúp xác định rõ ràng thêm mối quan hệ ý nghĩa giữa chính thể và bộ
phận.
Ví dụ: - Người Công Giáo Việt Nam thế kỷ 21.
- Người Công Giáo của Việt
Nam thế kỷ 21.
-
Người Công Giáo Việt Nam của thế
kỷ 21.
- Về mặt tổ chức:
Quan hệ từ làm cho bộ phận tách ra được khỏi chính thể và do đó làm tăng thêm
tính độc lập của nó đối với chính thể.
Ví dụ: - Chiếc áo Đức Mẹ.
- Chiếc áo của Đức Mẹ.
4.2. Trường hợp vắng quan hệ từ và trường hợp không thể sử
dụng quan hệ từ:
- Nếu thành tố phụ kết hợp gián tiếp với thành tố chính thì
từ ghép diễn tả ý nghĩa quan hệ và lúc ấy có thể sử dụng hoặc không
cần sử dụng quan hệ từ. Người ta gọi đây là trường hợp từ ghép có hai biến thể.
Ví dụ:
Có thể nói
|
Hoặc nói
|
Giám mục của giáo phận
|
Giám mục giáo phận.
|
Đức tin của Hội Thánh
|
Đức tin Hội Thánh.
|
- Nếu thành tố phụ kết hợp trực tiếp với thành tố chính thì
từ ghép diễn tả ý nghĩa đặc trưng và lúc ấy không thể sử dụng quan hệ
từ.
Ví dụ:
Có thể nói
|
Không thể nói
|
Giám mục phụ tá
|
Giám mục của phụ
tá
|
Đức tin tông truyền
|
Đức tin của tông
truyền
|
4.3.Vì những lý do đó, trước khi sử dụng loại từ
ghép có hai biến thể cần phải cân nhắc cẩn thận để chọn lựa biến thể
nào cho thích hợp.
- Ví dụ: Khi muốn diễn tả ý nghĩa quan hệ, ta nói: Linh
mục của dòng này; Cái tính yếu đuối củaanh ấy; Giáo lý của Công
Giáo; Lòng thương xót của Chúa.
- Ví dụ: Khi muốn diễn tả ý nghĩa đặc trưng, ta nói: Linh
mục dòng; Cái tính yếu đuối con người; Giáo lý Công Giáo; Lòng thương xót Chúa
(= Thiên Chúa có lòng thương xót).
5. „Lòng
thương xót Chúa“ hay „Lòng Chúa xót thương“?
Thương xót (đt.):
Đau thương và xót xa vì nỗi bất hạnh của người khác. “thương xót” là từ ghép
láy nghĩa [1], gồm hai thành tố có ý nghĩa tương tự với nhau: “thương” và
“xót”, là hai yếu tố đồng loại, bình đẳng (chỉ cần một yếu tố cũng tạm đủ),
thuộc loại có trật tự bấp bênh, chưa cố định, nên có thể hoán chuyển vị trị lẫn
nhau mà không đổi nghĩa: thương xót = xót thương (Ví dụ: yêu
thương, hận thù, tranh đấu, đơn giản, hoán cải...).
Lòng thương xót (dt.):
Lòng cảm thấy đau thương và xót xa vì nỗi bất hạnh của người khác. “lòng thương
xót” là từ ghép phụ nghĩa [2], vì “lòng” (chỉ về sự vật) và “thương xót” (chỉ
về hành động), là hai thành tố không cùng loại với nhau. Trong đó, “lòng” là
thành tố chính, quyết định tính chất của tổ hợp từ, còn “thương xót” là thành
tố phụ, bổ sung ý nghĩa cho “lòng”. Do đó, không thể thay đổi trật tự của hai
thành tố này. Có thể nói: Lòng thương xót = lòng xót thương; nhưng không
thể nói:thương xót lòng.
Lòng Chúa (dt.):
Chỉ về “nội tâm” của Thiên Chúa hay để nhấn mạnh chính Thiên Chúa. “Lòng Chúa”
là từ ghép phụ nghĩa, gồm hai thành tố có ý nghĩa khác biệt nhau: “Chúa” là
thành tố chính, trực tiếp, nòng cốt; “Lòng” là thành tố phụ, có vai trò hạn
định ý nghĩa “Chúa”.
“Lòng Chúa thương xót”: cũng là một từ ghép phụ nghĩa có kết
cấu danh từ + động từ, gọi là quan hệ “danh-động”. Trong đó: “Lòng Chúa” là
thành tố chính, “thương xót” là thành tố phụ, có vai trò hạn định ý nghĩa “lòng
Chúa”. Cụm từ này có thể dùng để diễn tả ý nghĩa đặc trưng của “lòng Chúa” là
“(hay) thương xót”. Nhưng nếu dùng để dịch thuật từ “Divina Misericordia” thì
không sát nghĩa.
“Lòng thương xót Chúa” là từ ghép phụ nghĩa. “Lòng thương
xót của Chúa” có thể xem là một danh ngữ [3] hay một đoản ngữ [4].
6. Kết luận
Có người đề nghị thay động từ “thương xót” bằng tĩnh từ
“nhân từ” để tránh cách hiểu “lòng (ai đó) thương xót Chúa”. Nhưng như chúng
tôi đã giải thích ở trên, cách hiểu như thế thì không chính đáng. Mặt khác,
theo chúng tôi “lòng thương xót Chúa” - gồm các chữ Việt (chữ thương tuy
có gốc Hán nhưng cũng đã hóa Nôm) thì hay hơn là “lòng nhân từ Chúa” vừa Hán
vừa Việt.
Cụm từ “lòng thương xót Chúa” thường được dùng như một danh
ngữ, chứ không dùng như một câu. Do đó không thể hiểu đây là một câu. Khi nói “lòng
thương xót Chúa” thì người ta hiểu là “lòng thương xót của Chúa” tức
là một danh ngữ, chứ không phải là một câu: “lòng (chủ từ) thương xót (động từ)
Chúa (thuộc từ)” vì thế không thể hiểu là: “(có) lòng thương cảm đối với
Chúa” [5]... Tương tự khi nói: “10 điều răn Đức Chúa Trời” thì người ta
hiểu là: “10 điều răn của Đức Chúa Trời” chứ không hiểu là: “10
điều (chủ từ) ‘răn (dạy, bảo)’ (động từ) Đức Chúa Trời (thuộc từ)”...
Tuy nhiên, để tránh sự hiểu lầm đối với những người bình dân
chưa nắm vững tiếng Việt, thì việc dụng cụm từ “lòng thương xót của Chúa” là rõ
nghĩa và chính xác hơn cả.
LM. Stêphanô Huỳnh Trụ
Ghi chú:
[1] Từ ghép láy nghĩa là kiểu từ ghép trong đó các
thành tố trực tiếp có vai trò bình đẳng với nhau và có ý nghĩa láy nhau: (a).
Hoặc vì chúng có ý nghĩa tương tự nhau: hư vô, tranh đấu, binh lính;
(b) Hoặc vì chúng có ý nghĩa cặp đôi nhau: thanh danh, vĩnh viễn; (c)
Hoặc vì chúng có ý nghĩa ngược nhau: thị phi, thành bại.
[2] Từ ghép phụ nghĩa là kiểu từ ghép trong đó có
một thành tố trực tiếp đứng làm nòng cốt rồi bên cạnh ghép thêm một thành tố
khác, đứng làm thành tố phụ. Ví dụ: Hải quân, nồng độ, thí điểm, vĩnh
biệt, vô ích...
[3] Danh ngữ:Kết cấu ngữ pháp trong đó danh từ là yếu
tố trung tâm, quy tụ xung quanh một số yếu tố phụ khác.
[4] Đoản ngữ: Tổ hợp từ có quan hệ chính phụ.
[5] Từ đó đã có người đặt câu hỏi: Ai thương xót ai?
Chúa thương xót chúng ta, hay chúng ta thương xót Chúa?...
Nguồn: Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin
Nguồn: Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin