I. ĐỨC TIN
“Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của
anh em.” (Gd 1,20)
Tự trong thâm tâm, chúng ta nghiệm thấy mình cần đến đức tin
trong mọi giây phút của cuộc đời. Đức tin cần thiết để đón nhận Lời Chúa; để
nghe được tiếng Chúa; để sống thánh ý Chúa; để vững vàng trong những lúc gian
nan; để đi vào đời sống hiệp thông; để phó dâng đời mình và những người thân
yêu vào vòng tay Chúa; để thanh luyện và đổi mới bản thân từng ngày.
Đức Tin (tín đức) trong Hán văn cho ta hiểu được ý
chính như sau:
Đức (德): ơn ; Tin (tín)
(信): đón nhận, nghe
theo. Đức Tin: ơn đón nhận, vâng theo.
Thuật ngữ “Đức Tin” có gốc trong Hy văn là pistis (πιστις):
là tin tưởng với tinh thần phó thác vững vàng. Tùy theo nội dung văn bản, thuật
ngữ “đức tin” trong Hy văn có thể hiểu là “trung tín”, “chung thủy” hoặc
“trung kiên” (1 Tx 3,7; Tt 2,10). Trong Tân Ước có một từ cùng nguồn gốc với
danh từ pistis (πιστις) thể hiện ý niệm về đức tin là động
từ pisteuo (πιστευω). Động từ này có hai nghĩa cơ bản:
- Nghĩa thứ nhất là “tin vào điều ai đó nói, chấp
nhận một lời tuyên bố (mang tính tôn giáo) là đúng”[1].
- Nghĩa thứ hai là “tin cậy người nào, khác với
tin suông một điều gì”[2]. Nghĩa thứ hai
này luôn được nhận ra qua việc sử dụng giới từ:
+ Giới từ εν (en) được sử dụng trong Phúc Âm
Mc 1,15: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Mc 1,15: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
+ Giới từ εις (eis) được dùng trong Cv
10,43: “...phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà
được ơn tha tội”.
+ Thánh Gioan đề cập đến việc tin vào danh Chúa
Giêsu: εις το ονομα (eis to onoma): “...những ai tin vào
danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga
1,12). Cấu trúc này có nghĩa đặc biệt đối với người Do Thái vốn xem danh
tánh của một người là tương đương với người đó. Vì thế, tin vào danh Chúa
Giêsu là đặt lòng tin cá nhân vào Ngài[3].
Như vậy, đức tin cần có cho sự cứu
rỗi bao gồm “tin rằng” và “tin vào”, tức là chấp nhận
một sự thật và tin vào một ai đó. Nhất thiết cả hai phải đi đôi với nhau.
Luận giải về chức năng của đức tin trong mối tương quan với
giao ước của Thiên Chúa, tác giả thư Do Thái viết: “Đức tin là bảo
đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy” (Dt 11,1). Trong Hy văn: Hypostasis (Υποστασις) được
dịch là “sự bảo đảm”, thường xuất hiện trong các văn bản giao dịch cổ viết
trên giấy papyrus. Moulton và Milligan cũng diễn giải như thế: “Đức
tin là hành động bảo chứng cho những gì đang được mong đợi”[4].
Chính vì vậy mà Giáo Lý Hội Thánh phân biệt giữa tin
như một hành vi (actus), và tin như là một nhân
đức (virtus). Nhân đức là cái gì bền bỉ, đã ăn rễ sâu thành tập quán.
Đức tin không chỉ là một hành vi, nhưng còn là một thái độ, một tâm tình, một
quan điểm, một não trạng, một nếp sống. Tin không chỉ là kết quả của nỗ lực con
người, nhưng trước tiên là một hồng ân của Thiên Chúa. Đó là những đặc tính của
đức tin, một nhân đức đối thần (virtutes theologicae), nhờ
đó chúng ta tin tưởng vào Chúa, chấp nhận tất cả những gì Ngài phán dạy và
mạc khải... bởi vì Ngài là chân lý (GLCG 1814).
“Đức tin” không chỉ củng cố thêm cho “niềm tin” được vững
chắc, bất chấp những thử thách, nhưng còn thay đổi toàn thể con người chúng ta:
nó giúp ta nhìn mọi sự dưới ánh sáng của Chúa, đánh giá mọi vật dưới ánh sáng
của Tin Mừng, không theo thị hiếu của thế gian. Đức tin còn giúp ta ngày càng
gắn bó với Chúa hơn, khát mong được kết hiệp với Ngài, chiêm ngưỡng Ngài diện
đối diện (x. GLCG 2609; 2709).
a. Tin là đáp lời Thiên Chúa
Đức tin đặt nền trên sự mặc khải của Thiên Chúa: “Với
tình thương chan chứa, Thiên Chúa vô hình đã ngỏ lời với loài người như với bạn
hữu. Ngài đối thoại với họ để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với
Ngài (MK 2). Vậy “Nếu mặc khải là con đường Thiên Chúa đến
với con người thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp
trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Augustinô). Thơ Do Thái
diễn giải ý nghĩa và vai trò của đức tin như sau: “Không có đức tin thì
không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa; vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có
Thiên Chúa, và tin Ngài là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm
Ngài” (11,6).
Ðức tin là lời đáp trả của con người toàn diện trước tiếng
gọi của Thiên Chúa. Con người toàn diện ấy bao gồm cả lý trí, ý chí, tình cảm,
ước muốn và hành động, nghĩa là đặt trọn bản thân qui hướng về Ngài (x. DV 5).
Vì thế, thánh Phaolô nói đến sự vâng phục trong đức tin (x. Rm 1,5;16,26), vì
chỉ một mình Thiên Chúa là Chân lý ban sự sống. Niềm tin vào Thiên Chúa phải là
sự gắn bó toàn diện và tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh.
Vì tin, Abraham đã vâng lời “ra đi mà không biết mình
đi đâu” (Dt 1,8), nhưng ông “vẫn trông cậy, mặc dầu không còn gì để
trông cậy” (Rm 4,18).
Vì tin, Mẹ Maria đã thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là
nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Mẹ
cũng đã đi vào tận “đêm tối của đức tin”[5] để hiệp
thông với khổ hình thập giá và tử nạn của Con.
b. Tin là gắn bó với Chúa Cha, qua Chúa Con, nhờ Chúa Thánh
Thần.
Tin vào Thiên Chúa chính là tin vào Ðấng Ngài sai đến là Ðức
Giêsu Kitô (x. Ga 1,18; 6,28-29), là Con Chí Ái của Chúa Cha (x. Mc 1,11).
Thiên Chúa dạy chúng ta phải nghe lời Ðấng ấy (x. Mc 9,7). Chính Đức Giêsu cũng
nói với môn đệ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga
14,1), vì “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Nhưng chúng ta
chỉ có thể đi vào đời sống đức tin nhờ được đón nhận Thánh Thần của Ðức Giêsu,
vì “Không ai có thể nói rằng: Ðức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở
trong Thần Khí” (1 Cr 12,3).
c. Tin là ân ban và là tự do đón nhận.
Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho các tín
hữu (Mt 16,17), để họ gắn bó trọn vẹn với Người (fides qua) và đón
nhận những chân lý do Ngài mạc khải (fides quae) trong Đức Giêsu Kitô
(x. MK 5). Chính Ngài đi bước trước và trợ giúp từ bên trong: “Ngài thúc
đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho mọi người
cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tìm theo chân lý" (MK 5).
Đức tin là một hồng ân nhưng đồng thời
cũng là hành vi nhân linh, vì ân huệ Thiên Chúa không xóa đi khả năng hiểu
biết và ý chí của con người, nhưng soi sáng, nâng đỡ và mời gọi cộng tác. Do
đó, tin cũng chính là hành vi tự do, vì “Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá con
người do chính Ngài tạo nên, con người ấy phải được tự do và được hướng dẫn
theo phán đoán của mình” (TD 11).
Khi rao giảng, “Ðức Giêsu đã trợ giúp và chứng thực lời
giảng thuyết của Ngài bằng những phép lạ, để khơi dậy và củng cố lòng tin của
thính giả, nhưng Ngài không hề tạo áp lực cưỡng ép họ” (TD 11).
d. Tin là hành động
Vì đức tin là sự gắn bó toàn diện con người với Thiên Chúa,
nên không thể ngưng lại ở những hiểu biết suông mà phải dẫn tới hành động.
Do đó, thánh Gioan nói đến việc “thực thi chân lý” và thánh Giacôbê
gọi “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
Người tín hữu phải luôn tự cảnh giác trước Lời Chúa nói: “Không phải bất cứ ai
thưa: Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu. Những chỉ ai thi hành
ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt,7,21).
Ðức tin là đòi hỏi nhất thiết để được cứu độ, như Ðức Giêsu
đã nói với các môn đệ khi Ngài từ cõi chết sống lại: “Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cứu độ cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và
chịu phép Rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin, sẽ bị kết
án” (Mc.16,15-16). Ơn cứu độ ấy sẽ hoàn thành trong ngày sau hết, nhưng
ngay từ bây giờ, đức tin cho ta nếm hưởng ánh sáng vĩnh cửu, “bảo đảm cho
những điều ta hy vọng” (Dt 11,1), nên đức tin là khởi điểm của cuộc sống
vĩnh hằng. Với một đức tin sống động, người tín hữu bước vào đời thờ phượng và
luân lý. Nhờ cầu nguyện, ta gặp gỡ chính Ðấng mà ta tin. Niềm tin đích thực
được thể hiện qua đời sống hằng ngày: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận
ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của
Người” (1Ga 2,3).
Cha Charles de Foucauld đã xác quyết về một đức
tin đích thực[6]: là đức
tin chi phối mọi hành động; đức tin lột cái bộ mặt bề ngoài của thế giới ra, và
cho thấy Thiên Chúa trong mọi sự; đức tin làm cho các lo âu, sợ hãi không còn ý
nghĩa nữa; đức tin làm cho con người tiến bước trong cuộc đời với một vẻ bình
tĩnh, một sự bằng an, một niềm vui sâu thẳm, như một đứa bé nắm tay mẹ hiền;
đức tin đặt linh hồn vào một thái độ thanh thoát hoàn toàn đối với mọi sự khả
giác nhờ thấy rõ tính hư vô của chúng. Đức tin còn cho ta nhận ra rằng: ngoài
việc làm đẹp lòng Chúa, thì tất cả chỉ là hư không; đức tin làm cho ta thấy sự
cao cả của Thiên Chúa, cho thấy rõ cái bé bỏng của ta. Đức tin khiến ta dám hy
sinh tất cả vì lòng yêu mến Chúa mà không do dự, không hổ thẹn, không sợ hãi,
không chùn bước bao giờ.
e. Loan truyền Đức Tin
Ðức tin là một hành vi cá nhân: con người tự
nguyện đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, Ðấng tự mặc khải. Nhưng đức tin
không phải là một hành vi riêng rẽ, vì không ai có thể tin một mình,
cũng như không ai có thể sống một mình. Không ai tự ban cho mình đức tin,
cũng như không ai tự ban cho mình sự sống.
Ta đón nhận đức tin nên cũng phải loan truyền đức
tin. Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Đức tin được đào sâu khi nó được
thông truyền”. Tình yêu của chúng ta đối với Ðức Giêsu và tha nhân, thúc
giục chúng ta nói với người khác về Đức Tin của chúng ta. Như thế, mỗi tín
hữu là một mắc xích trong dây chuyền rộng lớn các tín hữu. Tôi không thể
tin mà không có đức tin của người khác đỡ nâng, và với đức tin của tôi, tôi góp
phần vào việc nâng đỡ đức tin của kẻ khác (GLCG 875).
Là môn đệ Ðức Kitô, ta không chỉ gìn giữ, bảo vệ và
sống đức tin, nhưng còn tuyên xưng, làm chứng và truyền bá đức
tin: "Mọi tín hữu phải sẵn sàng tuyên xưng Ðức Kitô trước mặt mọi
người và bước theo Ngài trên đường thập giá” (x. LG 42; DH 14). Đó là niềm
vui ơn cứu độ của chúng ta, vì “Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy
cũng nhận người ấy trước mặt Cha Thầy...” (Mt 10,32-33). Do đó có những
tội phản nghịch cùng đức tin như: cố tình hồ nghi hay không tin những điều Chúa
dạy; hổ thẹn không dám tỏ mình là người Công giáo; liều mình trong những dịp
nguy hiểm có thể mất đức tin; sau cùng là chối đạo hay bỏ đạo (GLGH 1816).
3. Con đường Đức
Tin
Đức tin là cuộc hành trình đầy cam go và thử thách, là một
cuộc chiến đấu liên lỉ suốt đời. Chúng ta cần dựa vào Tin Mừng để soi dẫn và
làm lớn mạnh đức tin của mình.
a. Phải tin trước hết (Mt 9, 27-31)
Tin Mừng Matthêu thuật lại việc hai người mù xin Chúa Giêsu
cứu chữa. Ngài hỏi: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy
không?”. Thông thường các vị thầy thuốc chữa lành trước, rồi người ta mới
tin sau, còn Chúa Giêsu đòi người ta tin trước khi chữa lành, vì Ngài không
muốn người ta đến với Ngài theo kiểu khấn vái cầu may, được chăng hay chớ. Ngài
đòi hỏi người ta nếu muốn được giải thoát hay chữa lành thì phải dám buông mình
trong đức tin để Ngài hành động. Và nếu đức tin còn yếu, Ngài sẽ ban thêm,
nhưng không dùng quyền năng để áp đặt.
Chính trong đức tin mà người ta nhận ra Ngài là Đấng cứu
tinh hơn là một người hành nghề lang y. Chúa Giêsu sẵn sàng làm mọi điều để
thỏa đáng những nhu cầu chính đáng của con người, nhưng Ngài không thể làm gì
được cho những kẻ không tin. Đòi hỏi phải có đức tin, vì mọi hành động của Ngài
đều nhằm nâng cao đời sống tâm hồn của con người hơn là giải quyết tình trạng
trước mắt. Đôi mắt được sáng ra không bằng tâm hồn được sáng lên. Sáng mắt
chẳng có ý nghĩa gì khi tâm hồn vẫn chìm ngập trong u tối. Phải gặp được Chúa
Giêsu để thay đổi cái nhìn và não trạng, đó mới là sự chữa lành tận gốc.
Có một số người mù từ bẩm sinh đã được chữa khỏi, họ nhìn
thấy thế giới chung quanh quả là kỳ diệu, khác xa với những gì mà họ tưởng
tượng trước đó. Trên ý nghĩa tinh thần cũng vậy, chỉ khi gặp được Chúa, đôi mắt
tâm hồn ta mới sáng lên để nhìn thấy mọi sự khác hẳn với những gì mình thường
suy nghĩ hay mường tượng, cũng như từng phán đoán và nhận định trước đây. Dưới
cái nhìn đức tin, mọi sự đã mặc lấy một ý nghĩa khác.
Trong ánh sáng đức tin, ta không còn bị chận đứng ở bề mặt
của hiện tượng hay hình tướng bên ngoài, nhưng vào bên trong để có thể nhìn
thấy thực chất của vấn đề, thực trạng của tâm
hồn, thực tế của hoàn cảnh, thực tính của một lời
nói, thực tâm của một thái độ hay hành vi.
Trong ánh sáng đức tin, ta sẽ thấy mọi biến cố đều có ý
nghĩa, mọi khoảng thời gian đều là ân ban và là cơ may. Nhờ vậy, ta không còn
chủ quan, độc đoán hay thờ ơ lãnh đạm đối với cuộc sống của mình cũng như của
tha nhân. Tha nhân dù có thấp hèn đến đâu đi nữa, ta cũng vẫn thấy được những
phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa. Như Đức Bênêđictô đã nói: “Đức tin giúp
chúng ta hiểu rằng đời sống của mỗi người là vô giá vì mỗi người trong chúng ta
là hoa trái của tình yêu. Thiên Chúa yêu thương mọi người, kể cả những ai đã
rời xa hay xem thường Ngài. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi”[7].
Trong ánh sáng đức tin, ta thấy thất bại, khổ đau là điều
cần thiết cho sự khởi đầu ơn cứu độ. Nhưng rồi mù quáng trong đức tin vẫn là
cơn cám dỗ không ngừng của kiếp người. Thứ mù quáng đáng sợ là người ta không
còn nhận ra và chấp nhận sự mù quáng của mình. Chúa Giêsu từng lên án thái độ
đó của Biệt phái, là những người cứ cuộn mình trong nấm mồ tối tăm của thành
kiến và mớ kiến thức hạn hẹp.
b. Đức Tin khám phá (Mc 4, 35-41)
Trước cuồng phong dữ dội, từng đợt sóng lớn ập vào khiến
thuyền ngập đầy nước cơ hồ muốn chìm, các môn đệ dù là những dân chài kinh
nghiệm, cũng đành bó tay trước cơn nguy khốn. Các ông cuống cuồng đánh thức
Chúa Giêsu, và xin Ngài cứu kẻo họ chết mất. Ngài đã cứu họ không phải bằng một
kỹ năng hàng hải mà bằng một lệnh truyền cho sóng gió yên lặng.
Cuộc đời như biển cả mênh mông, có những lúc biển đời lặng
lẽ, có những lúc phong ba bão táp như thất bại, tai ương, bệnh tật, khốn khó,
khiến ta hoang mang sợ hãi, cuống cuồng không kém các môn đệ. Thế nhưng giông
tố cuộc đời xem ra lại cần thiết để ta nhận diện con người mình: con người yếu
đuối, mong manh, bất lực, dễ bị chao đảo và cuốn mất theo dòng đời. Đến lúc chẳng
còn ai có thể cứu ta được ngoài một mình Chúa.
Thật ra, Chúa thấy trước mọi sự xảy ra trong cuộc đời ta,
nhưng rồi nhiều khi Ngài vẫn lặng yên như không thấy. Có khi chúng ta cũng
trách Ngài như các môn đệ: “Chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì
sao?”. Có vẻ như Chúa quá vô tư, lãnh đạm và ơ hờ. Trách Chúa cũng là
trách chính bản thân ta, nhiều khi cũng chỉ lo sống cho riêng mình mà quá thờ ơ
lãnh đạm với Chúa. Chỉ khi nguy ngập mới lạy lục kêu van. Hóa ra, chúng ta chỉ
coi Chúa như tượng thần hộ mệnh, cần thì đem ra hô hoán, không cần thì dẹp vào.
Nhưng rồi Chúa vẫn chấp nhận và âm thầm chờ đợi ta lên tiếng. Không phải ta lên
tiếng rồi Chúa mới nghe, nhưng Ngài vẫn nghe trước khi ta lên tiếng.
Sau khi truyền cho sóng biển lặng yên, Chúa Giêsu trách các
môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin”. Nói
cách khác: Sóng gió làm gì được anh em khi Thầy đang ở với anh em, bên
cạnh anh em. Nhưng chính qua cơn giông bão mà các môn đệ đặt lại vấn đề
con người Chúa Giêsu cách sâu xa hơn: “Người này là ai, mà cả đến gió và
biển cũng phải tuân lệnh?”.
Qua mỗi biến cố, ta lại khám phá thêm sự hiện diện và quyền
năng của Chúa Giêsu trong cuộc đời mình, ngay bên mình. Thuyền đời Kitô hữu
chẳng bao giờ êm ả, nó chỉ êm ả khi về tới bến quê bình an. Nhưng rồi ta phải
biết giữ cho lòng mình vững vàng giữa những nguy nan, không hoang mang, không
thất vọng, dù Chúa vẫn ngủ yên. Vấn đề không phải là sự bất động của Chúa, mà
là sự náo động của ta: ở bên Chúa mà niềm tin vẫn xa rời, sống bên Chúa mà lo
âu vẫn không ngơi. Khám phá thêm về Chúa cho ta thấy rõ thêm về con người mình.
c. Đức Tin cần trợ giúp (Lc 5, 17-26)
Tin Mừng kể lại việc người bại liệt tự bản thân không đến
được với Đức Giêsu, mà phải nhờ đến sự giúp đỡ nhiệt tình của bốn người khiêng.
Những người này không thể vào nhà bằng cửa chính vì quá đông dân chúng, họ phải
tìm con đường gay go hơn bằng cách leo lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả bệnh nhân
cùng với cái giường xuống trước mặt Chúa Giêsu. Thấy họ có lòng tin như vậy,
Chúa Giêsu bảo: “Này anh, anh đã được tha tội rồi”.
Bao người con đã được cứu chữa hoặc trở thành
người tốt nhờ đức tin của ông bà, cha mẹ, anh em, bạn hữu, cũng như những người
chung quanh. Sử gia hiện đại T. Carlyle cho biết, dường như tiếng mẹ ông luôn
vang vọng bên tai: “Con hãy tin cậy Chúa và làm điều lành”. Đức tin giúp
ta nhận ra sự hoạt động của Chúa qua những người thân cận, nhất là những lúc
ngặt nghèo không thể tự mình đứng vững và vươn lên. Không có sự trợ giúp nhiệt
tình của họ, không biết đời ta sẽ ra sao? Đến phiên ta cũng vậy, cần quan tâm
nâng đỡ và cứu giúp những người cùng khổ. Chúa muốn qua ta, Ngài ban ơn cứu độ
cho mọi người. Hãy làm cho anh em điều gì đó trước sự khốn quẫn của họ, để khơi
dậy một niềm tin.
Hơn nữa, phải nhận rằng, những cảm nhận thiêng liêng của ta
cũng thường qua sự giao hảo với anh chị em mình: sự quan tâm và giúp đỡ
của họ khiến ta thoát khỏi sự bế tắc nơi chính mình; gương sáng và việc lành
của họ là động lực giúp ta tin tưởng giữa những bất trắc gian nan; nhìn thấy
việc cầu nguyện và dấn thân của họ khiến ta thoát ra khỏi sự nguội lạnh ơ hờ.
Quả thực, nhờ anh chị em mà đời sống ta thêm tin yêu và hy vọng.
d. Đức Tin kiên trì (Ga 9, 1-41)
Người mù từ bẩm sinh đã được chữa lành nhờ may mắn gặp được
Chúa Giêsu. Nhưng lại không may vì là ngày Sabbat, nên sự việc lại trở nên rắc
rối. Nhóm Biệt phái đã từng chống đối Chúa Giêsu, nay lại thêm tức tối về sự
việc này, nên quyết liệt tra hỏi anh mù về việc được sáng mắt. Họ đưa ra những
lý lẽ để kết án Chúa Giêsu, và khư khư đòi anh phải phủ nhận Ngài, không được
coi Ngài là người bởi Thiên Chúa mà đến.
Cũng như nhóm Biệt phái, kinh nghiệm thiêng liêng cho ta
thấy mình sáng mắt nhưng không sáng lòng; thấy sự việc nhưng không thấy sự
thật; thấy dấu lạ mà không thấy Chúa. Lý do có thể vì ta cứng nhắc trong một lề
thói, cứng đọng theo một lối suy nghĩ, chỉ dựa vào luật lệ và đạo đức bên
ngoài. Lý do khác nữa là vì tự ái, thành kiến, quyền hành, danh giá, nhất là vì
ghen ghét mà ta muốn suy diễn khác đi.
Hơn nữa, nhóm Biệt phái càng không muốn chân nhận Chúa
Giêsu, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối suy nghĩ và cách sống đạo, phải thay
đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin theo Ngài. Họ tự hào
mình đã hiểu biết đầy đủ và đạo đức rồi. Niềm tự hào này khiến họ khép lại,
không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.
Ai cũng cho mình là thông sáng, nhưng có những lúc ta tự làm
cho mình mù: khi không muốn chấp nhận thực tế về bản thân và tha nhân; khi né
tránh sự thật và không muốn nghe ai. Trên con đường đức tin, có những khi ta
giống như những Biệt phái, từ ánh sáng lại rơi vào bóng tối. Cần tìm lại ánh
sáng bằng tấm lòng khiêm nhường và đón nhận sự thật. Nhưng rất
tiếc, đang khi anh mù vui mừng vì tìm lại được ánh sáng thì thử thách lại ập
tới. Người ta nghi ngờ anh, xoi mói anh, gây khó khăn và đe dọa đời sống anh.
Dù anh ta có được cuộc sống mới, nhưng gia đình và những người thân lại phủ
nhận, bỏ rơi, vì sợ liên lụy. Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải
đối đầu với quyền lực tôn giáo: là những người dạy dỗ, hướng dẫn, và là
mẫu gương sống đức tin cho dân Chúa. Họ mạt sát anh là người sinh ra trong tội
lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat.
Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi Hội đường. Đây là hình
phạt nặng nề, nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị giáo quyền khai trừ, bị
người thân chối từ, bị dân chúng xa lánh, anh đau lòng, tủi hổ, cảm thấy cô đơn
hoàn toàn, một thử thách quá sức. Để giữ vững niềm tin, anh đành chấp nhận hành
trình đơn độc. Để sống cho sự thật, anh chấp nhận bị loại trừ. Anh chọn lựa dứt
khoát: dám mất tất cả để trung tín với niềm tin của mình. Lúc khổ tâm nhất cũng
là lúc Chúa Giêsu xuất hiện để nâng đỡ và khen thưởng đức tin kiên cường của
anh. Anh gặp lại Ngài với niềm vui khôn tả.
Hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng vậy, không
thiếu những thử thách và bóng tối vây quanh, đòi ta phải kiên tâm đến cùng. Đức
tin Chúa ban cho chúng ta giống như viên ngọc quí, nhưng “ngọc bất trác
bất thành khí”, đức tin mà không được tinh luyện trong thử thách sẽ trở
thành vô hiệu. Từng biến cố gay go trong đời đều là cơ hội để làm sáng lên
đức tin: một đức tin có thể còn mù mờ và bị bao phủ bởi nhiều bóng tối: bóng
tối của lòng mình, của anh chị em, của đời sống cộng đoàn.
Chúa đang đón đợi mỗi người chúng ta trên từng chặng đường
và từng biến cố lớn nhỏ, để làm sáng lên cuộc đời ta. Đức
Bênêđictô XVI khẳng định rằng: “Trở thành Kitô hữu không phải là
kết quả của sự lựa chọn đạo đức hoặc ý tưởng cao thượng, mà là cuộc gặp gỡ
với một biến cố, một con người, đem lại cho đời sống mình một chân trời mới và
một hướng đi quyết định” [8].
e. Đức Tin làm nên phép lạ (Lc 17, 5-10)
Hơn hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm phép lạ
cho những ai tin vào Ngài. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một phép lạ phi thường.
Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ khác nữa. Chúa Giêsu đã
khẳng định với chúng ta: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh
em có bảo cây dâu nầy: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ
vâng lời anh em”.
Chúa Giêsu không muốn nói đức tin như một sức mạnh phù phép
hay bùa chú để làm những chuyện dị thường. Nhưng Ngài muốn nói: đức tin là một
động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ và dám thực hiện những điều tốt lành mà
bình thường không ai dám. Bởi vì người có đức tin thì hành động bằng quyền năng
của Thiên Chúa ban, không dựa vào khả năng của mình. Chúa Giêsu đã quả
quyết: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ
làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì
Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12).
Chính nhờ đức tin thúc đẩy mà biết bao Kitô hữu đã sống cách
anh hùng, cao vượt, dám hy sinh đời mình cho hòa bình và chính nghĩa, dám từ bỏ
mọi sự để dấn thân phục vụ tha nhân trong những trại cùi, trại mồ côi, trại
khuyết tật, trại AIDS, v.v. Đức tin được thể hiện và sống động bằng đức ái:
trong sự phục vụ và làm tôi tớ cho mọi người một cách vô điều kiện. Với
đức tin, người ta coi sự phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình, đó là thái độ
phục vụ vô kỷ, vô công, vô danh, vô cầu, vô lợi. Ta có làm được điều
gì tốt lành thì đó là việc phải làm, là bổn phận phải thi hành, không có gì để
vênh vang tự đắc. Đức tin không đòi hỏi điều gì khác hơn trong sự phục vụ, mà
chỉ vì phúc lợi của tha nhân, vì tin rằng cũng là phục vụ chính Chúa. Phép lạ
của lòng tin là thế, biến cuộc sống này nên tốt đẹp, bình an và hạnh phúc cho
nhau.
Đức tin có một sức bật kỳ diệu. Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu
có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẩy, người ta có
thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Và văn hào Kierkegaard đã giải thích: “Điểm
tựa ấy chính là đức tin”. Đức tin có thể biến đổi một xã hội mục nát, một thế
giới đầy bất công, bạo lực, chia rẽ... thành một vương quốc của tình yêu huynh
đệ, thành một “Trời Mới Đất Mới” trọn vẹn trong ngày cánh chung.
g. Đức Tin của lòng khiêm hạ (Mt 8, 5-11)
Đây là câu chuyện viên đại đội trưởng đến xin Chúa Giêsu
chữa bệnh cho đầy tớ mình. Ông ngỏ lời điềm đạm, không dám thúc bách hay đòi
hỏi Chúa. Ông chỉ trình bày tình trạng đau đớn của đầy tớ ông với tất cả lòng
thương cảm. Chúa Giêsu nhận lời đi ngay, nhưng ông lại thưa: “Tôi chẳng
đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi khỏi bệnh”.
Với tư cách là sĩ quan, ông có quyền lệnh cho lính đến mời
Chúa Giêsu, thế nhưng ông lại thân hành đến với tâm tình và thái độ của kẻ thấp
bé. Ông có quyền làm mà không làm, để rồi làm như một người không có quyền làm.
Lòng tin nơi ông đã sinh một thái độ khiêm hạ đối với Chúa Giêsu, khiến ông
đáng yêu quí hơn.
Lòng tin còn khiến ông nhìn Đức Giêsu là một Lang Y vượt
trên mọi lang y khác, không cần chữa bằng thuốc men mà bằng thần lực của Ngài.
Lòng tin đó không còn nằm trên bình diện tự nhiên nữa, nhưng là lòng tin siêu
nhiên. Lòng tin đó là một ân ban, nhưng chắc chắn nó phải phát xuất từ một tâm
hồn trong sáng, đầy yêu thương, không bị che lấp bởi thành kiến, đam mê, dục
vọng, để có thể cảm nhận sâu xa về con người Giêsu. Chính nhờ đức tin mà
ông vượt qua hàng rào kỳ thị và khinh bỉ của người Do Thái để đến với Chúa
Giêsu. Họ khinh bỉ ông vì ông là dân ngoại, mà dân ngoại thì bị coi là ô uế, cả
nơi ăn chốn ở. Hơn nữa, họ còn căm thù ông vì là quân xâm lược. Ông biết và
chấp nhận điều đó, nên ông không dám để Chúa Giêsu đến nhà. Những điều đó đã
làm Chúa Giêsu ngạc nhiên và lên tiếng: “Tôi không thấy một người
Israel nào có lòng tin như thế”.
Chúa Giêsu đề cao lòng tin, vì lòng tin hoàn mỹ hóa con
người, làm sáng lên các đức tính khác. Sự nhã nhặn, yêu thương, kính trọng,
khiêm tốn, hiền hòa nơi viên bách quản, chính là hoa trái của lòng tin nơi ông.
Chính do lòng tin mà con người đạt tới ơn cứu độ. Đang khi đó thì người Do Thái
tự hào cách sai lầm rằng, mình là dân ưu tuyển của Thiên Chúa, đương nhiên được
cứu độ. Nhưng rồi Chúa Giêsu cho biết: “Từ phương đông phương tây, nhiều
người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop trong Nước Trời.
Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta
sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 18,11-12). Đời sống ta cũng
vậy, ơn gọi Kitô hữu hay tận hiến không làm ta trở nên công chính, nhưng
là đức tin.
h. Đức Tin bừng sáng (Mt 28, 8-15)
Sau khi được thiên thần báo tin Chúa Giêsu đã sống lại, các
phụ nữ tuy sợ nhưng hớn hở vui mừng chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Nhưng
vui mừng hơn nữa khi Chúa Giêsu đón gặp các bà. Họ tiến lại ôm chân Chúa, bái
lạy Ngài. Bao nhiêu sầu thương, lo âu và thất vọng của các bà giờ đây biến
thành niềm hân hoan không thể tả được. Sự thật là các bà không dám nghĩ tới
việc Chúa sống lại, và cũng đã quên Lời Chúa đã báo trước đó, có nhớ chăng cũng
chẳng dám tin là như thế. Nỗi bi thương và tình cảm bi lụy đã lấn át lý trí và
cả lòng tin.
Đó cũng là kinh nghiệm về lòng tin của ta khi gặp thử thách
gian nan trong đời. Có những lúc ta gần như tuyệt vọng, thấy rằng tin vào Chúa
cũng chẳng tới đâu, nhất là khi đứng trước ngôi mộ buồn của đời mình. Tiếc
thay, Chúa vẫn cho những dấu chỉ mà ta không thấy, vẫn khơi lên niềm hy
vọng mà ta không hay, vẫn âm thầm đón đợi mà ta không biết, vẫn nâng đỡ ta bằng
mọi cách mà ta không nhận ra...
Nhiều khi ta chỉ lo quay quắt với những nỗi chua cay và buồn
phiền của mình, đòi hỏi hoàn cảnh và sự việc phải diễn tiến theo ý mình, mà
không hay rằng Chúa đang đem lại một sức sống mới cho mình. Sức sống mới đó đòi
ta phải gột rửa lòng mình, phải thanh tẩy trí não của mình qua những thử thách
và đau thương. Đức tin có thể lớn lên được không, ơn gọi có thể vững vàng
và phát triển được không, nếu không qua những đau thương trong đời, kể cả những
vấp ngã?
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã trở thành thực tại cho
các môn đồ xưa, thì nay cũng trở thành hiện tại cho chúng ta. Chính từ đó mà ta
mới nói tới sứ mạng hay sứ vụ loan báo Tin Mừng của người môn đệ Đức Kitô. Sứ
vụ đó chính là kết quả của một lòng tin bất diệt, của một lòng yêu mến phi
thường. Sứ vụ của Đấng Phục Sinh phải được tiếp tục, nghĩa là Tin Mừng cứu độ
phải được loan báo cho anh em lương dân. Chính tại Galilê, các môn đệ mới hiểu
trọn vẹn ý nghĩa mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ”.
Đang khi các đồ đệ vui mừng vì sự sống mới đã bừng lên, thì
đám lính canh lại rơi vào sự mê hoặc của bóng tối. Tiền bạc và lợi lộc lại phủ
kín lòng người trước sự thật. Đừng quên rằng, hôm nay cũng như thời xưa, người
ta luôn tìm cách trù dập chân lý, bưng bít chân lý, phủ nhận chân lý. Chân lý
chẳng bao giờ bị dập tắt, nhưng điều hệ trọng là chúng ta phải góp phần thể
hiện và loan truyền chân lý. Chẳng ai có thể trở thành Kitô hữu đích thực mà
lại thiếu một bầu nhiệt huyết trở nên chứng nhân cho Tin Mừng.
4. Đức Maria - Mẹ
của Đức Tin
Nhìn ngắm Đức Maria, ta nhận ra một sự vâng phục tuyệt diệu
trong đức tin, vì có biết bao điều Mẹ chẳng hiểu gì:
Làm sao hiểu được khi một Đấng Cứu thế mà phải sinh ra trong
nơi tồi tàn như thế? Là con Thiên Chúa mà phải trốn chui trốn nhủi dưới tay
người đời vậy sao? Là Đấng đem lại sự sống mà lại sống quá nghèo nàn đến nỗi bị
mọi người khinh khi coi thường vậy ư? Làm sao hiểu được khi Mẹ chứng kiến Chúa Giêsu
bị chống báng, vu cáo, hành hình và tử nạn trên thập giá, nhất là khi Mẹ ôm lấy
xác con mình? Thế thì những lời truyền tin từ giây phút đầu có nghĩa lý gì? Mẹ
được gọi là Đấng đầy ơn phúc mà chẳng thấy phúc, chỉ thấy họa. Là người có
Thiên Chúa ở cùng mà chỉ thấy khốn khó và đau thương. Được bà Isave tuyên xưng
là Mẹ Thiên Chúa nhờ sự soi sáng của Thánh Thần, mà thực tế trước mắt người Do
thái, Mẹ chỉ là mẹ một tên gian phi. Mẹ được ơn vô nhiễm và trọn đời đồng
trinh, nhưng những hậu quả mẹ gánh chịu như là một người tội lỗi, vì đối với
người đời, không có nhân thì sao lại có quả?
Dưới mắt nhân loại chúng ta có thể là như thế. Nhưng qua tất
cả những điều đó mà ta thấy Đức Maria đã đạt tới đỉnh điểm của đời sống đức
tin. Vì chỉ một lần thắc mắc, Mẹ không bao giờ thắc mắc nữa. Mẹ có suy đi nghĩ
lại để tìm hiểu ý nghĩa của các biến cố, nhưng không hề nghi nan, nao núng. Mẹ
đã xin vâng theo ý Chúa nên không bao giờ đặt lại vấn đề, dù trước mắt là bóng
đêm của huyền nhiệm và những tình cảnh éo le mà không ai có thể lý giải được.
Tuyệt vời thay! Mẹ đã hóa giải bằng đức tin sâu thẳm, bằng tình mến sâu xa.
Vì hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, nên Mẹ hoàn toàn bình tâm
giữa mọi thử thách. Không gì có thể ràng buộc Mẹ ngoài một mình Chúa là tự do
của đời Mẹ. Vì hoàn toàn tin tưởng nên Mẹ hoàn toàn hạnh phúc, và được gọi
là Đấng Toàn Phúc. Mẹ thật sự có buồn rầu (stabat Mater), nhưng
không phải buồn rầu cho mình mà cho số kiếp tội nhân. Mẹ thật sự có đau lòng,
nhưng không phải đau lòng cho mình, mà đau nỗi đau của Chúa Giêsu trước sự cố
chấp của con người. Chúng ta hướng nhìn về Mẹ để sống đức tin vô giá của mình.
Trong cuộc sống có những điều ta hiểu được, nhưng có biết bao điều ta không
hiểu được, thậm chí có những cái vô lý, bất công và tàn bạo. Hiểu hay không
hiểu thì điều chính yếu là luôn mở lòng để đón nhận Thánh Ý Chúa trong cuộc
đời.
Chúng ta cũng hướng về Thánh Giuse, một con người chỉ biết
hành động theo đức tin; luôn sẵn sàng sống chết cho ý định của Thiên Chúa. Điều
cần nêu lên là: giữa Đức Maria và thánh cả Giuse, tuy đức tin
mỗi người mỗi vẻ, nhưng mười phân vẹn mười. Mỗi người theo vai trò và chức năng
của mình, nhưng đức tin sống động của hai Đấng đều tuyệt mỹ. Cũng như hai Đấng,
Chúa đang làm nên cuộc sống của ta trong từng biến cố theo dự định mầu nhiệm của
Ngài. Điều cần là ta đừng để cho mình bị dính bén, bị trói buộc vào thú vui,
tiền bạc, của cải, danh giá, quyền hành, chức tước... Trong đức tin, ta cứ
phải buông bỏ không ngừng, để có thể đón nhận sự sống linh thiêng của Chúa đang
trao ban cho ta qua từng thời khắc: “Chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và
tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta,
mắt gắn chặt vào Ðức Giêsu là Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin chúng
ta” (Dt 12,1-2).
II. ĐỨC CẬY
“Chính Đức Kitô, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới
vinh quang” (Cl 1, 27).
“Đức Cậy” còn gọi là đức “Hy Vọng”, bao hàm ý
nghĩa trông mong, trông chờ, trông đợi. Hy vọng là một điều kiện cho sự
tồn tại của con người. Người nào hay tập thể nào chỉ biết bám níu vào quá khứ
sẽ trở nên già cỗi, cổ hũ, và bị thời gian đào thải, vì đi ngược dòng lịch sử.
Dù rằng tương lai không phải lúc nào cũng dành cho ta những điều tốt đẹp, nhưng
đời sống tốt đẹp vẫn là điều khát mong của mọi người trên đời này.
Tuy nhiên, mọi hy vọng trên đời này chẳng có chi bền vững,
vì tất cả sẽ qua đi, chẳng còn lại gì, cả mạng sống mình cũng thế. Vì thế,
trong ta nảy sinh niềm khát vọng lớn lao hơn, là làm thế nào để giữ được những
điều thiện hảo mà ta đang có hoặc sẽ có, nhất là làm thế nào đạt tới sự viên
mãn trường tồn. Đó là hy vọng sâu thẳm nhất của con tim, và là niềm hy vọng
Kitô giáo.
1. Thuật ngữ “Đức
Cậy”
Ý nghĩa từ “cậy” trong tiếng Việt không được hay lắm. Sở dĩ
nó được gọi là nhân đức vì được dùng để chuyển dịch từ ngữ thần học Tây phương: Spes (Latinh); Hope (Anh); Espérance (Pháp).
Từ ngữ “trông cậy” chưa đủ làm rõ nghĩa, nên ngày nay người ta dùng từ “Hy
Vọng” (Spes) mà chính Công Đồng Vat. II đã dùng để gợi lên tâm tình tích
cực trong nhân đức này.
Đức Cậy (vọng đức) trong Hán - Nôm với ý chính như
sau:
Đức (德): ơn; Cậy ( ): tin
tưởng, phó thác.
Đức Cậy: ơn tin tưởng, phó
thác.
Thuật ngữ “Đức Cậy” có gốc trong Hy văn. Theo
thánh Phaolô, có ba yếu tố cấu thành đời sống mới của Kitô hữu trong đức
cậy là: elpis (ελπίς), elpizô (ελπίζω): cậy trông, hy
vọng (1Tx 1,3; Rm 4,18) đi kèm với hupomonê (υπομονη): sự
kiên nhẫn, bền chí. Ngoài thư 1Ga 3,3, ta còn gặp từ elpis nơi
Cv (8 lần), thư Dt (5 lần), 1Pr (3 lần), và từ hupomonê dùng trong Kh
(7 lần). Niềm cậy trông gắn liền với hupomonê (kiên nhẫn) trong gian
khổ, thử thách (2 Cr 6,3-4; 2Tm 3,10) như dấu chứng của người tôi tớ trong Tin
Mừng (2Cr 12,12).
Bản Kinh Thánh Bảy Mươi dùng động từ elpizô để dịch
nhiều từ Hipri: qawah (chờ đợi, hy vọng), batah (tin cậy
vào), yahal (chờ đợi), hakah (mong chờ chắc
chắn), hasah (tin tưởng vào). Tất cả đều có nghĩa chung là đặt niềm
trông cậy, hy vọng vào một ai đó. Đối với dân ngoại, niềm hy vọng của họ đặt
vào các vị thần linh để mong đón nhận những thiện hảo vật chất, còn hy vọng của
chúng ta mang chiều kích thiêng liêng, được cắm rễ và xây dựng trên chính Thiên
Chúa.
2. Niềm hy vọng của chúng ta
Niềm hy vọng Kitô giáo vượt trên tất cả mọi thứ cân đo đong
đếm liên quan đến các sự vật trần thế. Đó là niềm hy vọng mà Thiên Chúa
ban tặng trong Đức Kitô, Đấng qui tụ mọi người tin vào vương quốc Ngài. Vương
quốc đó đã khai mào và thực sự hiện diện trên trần gian (Mt 12, 56; Lc 11, 20),
sẽ được hoàn thành viên mãn ngày thế mạt lúc Đức Kitô quang lâm. Đó là Vương
quốc của những kẻ được chọn để đón nhận sự sống vĩnh cửu (Ga 5, 24; 6, 47-68;
Cv 15, 46).
Sách Giáo Lý xác định như sau:“Đức Cậy là nhân đức đối thần,
nhờ đó chúng ta trông mong Nước Trời và sự sống vĩnh cửu như hạnh phúc đời
mình, khi tin tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và nương tựa vào ơn trợ lực
của Chúa Thánh Thần chứ không dựa vào sức mình” (GLCG 1817). Trên nền
tảng đó, ai không biết đến Thiên Chúa, dù người ấy có bao thứ hy vọng, thì cuối
cùng cũng là vô vọng (x. Eph 2,12). Niềm hy vọng vững vàng, bất chấp mọi thất
vọng chỉ có thể là Thiên Chúa - Đấng là nguồn mạch sự sống và đã yêu thương ta
“đến cùng” (x Ga 13,1; 19,30).
Quả thật, chính Thiên Chúa là nền tảng của hy vọng, chứ
không phải bất cứ thần linh nào. Đó là Đấng có diện mạo con người và là Đấng đã
sống và chết vì yêu thương chúng ta. Nước Ngài không phải là một đời sau tưởng
tượng nhưng hiện diện bất cứ nơi nào Ngài được yêu thương và bất cứ khi nào
tình yêu của Ngài đến được với chúng ta. Chỉ tình yêu Ngài mới ban cho chúng ta
khả năng kiên vững ngày qua ngày, mà không đánh mất đi nhiệt tình của niềm hy
vọng trong một thế giới không hoàn thiện tự bản chất. Đồng thời tình yêu của Ngài
bảo đảm cho sự hiện hữu của sự sống “đích thực” mà ta vẫn trông đợi. (Spe Salvi
31).
Niềm hy vọng của Kitô hữu là sự thông phần vinh quang của
Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta (Rm 5, 8-9). Ngài là niềm vui ơn
cứu độ (Rm 5, 9-10; 1 Tx 5,8), là sự sống vĩnh cửu (Rm 5,17. 6, 22; 1Cr 15,
22), Đấng sẽ biến đổi thân xác ta phù hợp với thân xác vinh quang của Ngài (Pl
3, 20-21). Niềm hy vọng đó không chỉ cá nhân, mà cho toàn thể dân Chúa và
toàn thể vũ trụ (Rm 8,19-22); không chỉ hướng về tương lai mà còn ngay trong
hiện tại, lúc này và ở đây “hic et nunc” (1Cr 13,12), vì sự sống mới và ánh
sáng cứu độ đã bừng lên (2Cr 4,6). Trong ý nghĩa đó, thánh Phaolô cất cao
lời kêu gọi: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân” (Rm
12,12).
Thật vậy,“Cánh cửa mịt mù tăm tối của thời gian, của tương
lai, đã được mở toang. Ai có niềm hy vọng thì sống khác hẳn; vì người có niềm
hy vọng đã được ban cho hồng ân một cuộc sống mới” (SS 2). Cuộc sống
mới đó cho ta đầy tràn niềm vui và lòng tín thác, vì biết rằng cuộc đời mình
không do số mạng mù quáng định đoạt, nhưng nằm trong bàn tay quan phòng của
Thiên Chúa là Cha nhân lành, Đấng muốn cho chúng ta được hạnh phúc, và chu cấp
những phương thế để đạt tới cứu cánh đó. Cuộc phục sinh của Đức Kitô cho ta
biết chắc tiếng nói cuối cùng là Sự sống, Tình yêu, chứ không phải Tội lỗi hay
Tử thần (x.1Cr 15,15-28.54-58). Dựa vào niềm tin tất thắng đó, ta sẵn
sàng “trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng” của mình (x.1Pr
3,15).
Từ đó, ta biết tội nghịch với Đức Cậy là sự tuyệt vọng:
là không hy vọng Chúa sẽ ban ơn cứu rỗi cho ta. Tội tiếp đến là tự phụ: là
cậy dựa vào công sức của mình mà không dựa vào ơn Chúa. Ngược lại, là
tội ỷ lại vào ơn Chúa mà không làm gì cả, khiến ta mất nhân cách và
trách nhiệm, mà còn vô hiệu hóa các năng lực của tâm hồn mình. Thánh Tôma gọi
đó là tội chống lại Thánh Thần, vì coi thường hoạt động và giúp đỡ của
Ngài. Trong mọi hoàn cảnh, mỗi người phải hy vọng sẽ được ơn Chúa
giúp “bền đỗ đến cùng” (x.Mt 10,22) để được hưởng sự sống đời đời.
3. Trên đường Hy
Vọng
Cũng như Đức Tin là cuộc hành trình đầy cam go và thử thách,
thì Đức Cậy cũng là con đường có nhiều gian nan và trắc trở. Chúng ta cần dựa
vào Tin Mừng để để làm lớn mạnh Đức Cậy của mình bằng những tâm tình sau đây.
- Không thất vọng (Ga 16, 29-33)
Các môn đệ vui mừng thưa với Thầy: “Giờ đây chúng con
nhận ra Thầy biết hết mọi sự … Vì thế chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà
đến”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu báo trước cho biết sẽ đến lúc họ bỏ Ngài mà
trốn. Sự thật đã xẩy ra như thế, họ không chỉ bỏ trốn, mà còn phủ nhận và phản
bội. Dù biết rõ sự hèn nhát và phản trắc của những kẻ thuộc về mình, Chúa Giêsu
vẫn không trách cứ hay bắt bẻ họ lúc đó, cũng không bắt tội và kết án họ sau
đó, mà vẫn yêu thương họ đến cùng. Ngài yêu họ với tất cả sự yếu hèn của họ.
Nhìn biết họ thế nào, Ngài yêu họ thế đó. Ngài không thất vọng về họ, vì Ngài
không kỳ vọng quá mức về họ.
Không những thế mà Ngài còn an ủi, khích lệ họ: “Thầy
nói với anh em những điều ấy để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian,
anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian”. Tình thương của Thầy thật sâu thẳm, không nghĩ tới việc mình bị tổn
thương do sự bất trung của họ, nhưng nghĩ đến việc họ bị tổn thương vì sa ngã.
Tình thương đó còn cao vượt hơn nữa khi Ngài vẫn tin tưởng họ, giao sứ mạng cho
họ, để họ hành động thay Ngài.
Trước tình yêu vô biên của Chúa, ta không còn lý do nào để
không hy vọng vào Ngài. Cuộc đời ta dù có sa lạc, sa ngã, hay bất trung, bất
tín, thì Chúa vẫn đón nhận, đỡ nâng, và tìm cách tái tạo thành con người mới,
miễn ta đừng nản chí, buông xuôi. Vòng tay Chúa luôn rộng mở, lòng ta đừng
khép lại; sự sống Chúa luôn lan tỏa, ta đừng tự chận đứng mình; Chúa luôn khơi
lên niềm hy vọng, dù tình trạng nào ta cũng đừng thất vọng, nhưng càng cậy
trông.
- Cậy dựa vào Chúa (Mt 6,25-34)
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy cậy dựa vào tình yêu và
quyền năng của Thiên Chúa, đừng lo lắng quá đến vật chất, của ăn, mạng sống...
Quá lo lắng về vật chất khiến ta mất lòng cậy trông và hy vọng vào Thiên Chúa,
và rồi bao nhiêu cũng chẳng vừa. Thực tế có một mối nguy
là khát vọng sâu xa có thể biến thành tham vọng vô đáy,
khiến con người hành động bất chấp và gây nên bao thảm họa cho nhau. Trong cuốn Quê
hương và Giáo Hội (tr. 253-255), Đức Cha Nguyễn Thái Hợp có nhận định như
sau:
“Từ khi có chủ trương đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành
tựu kinh tế quan trọng, nhưng rồi kéo theo đó bao nhiêu thảm trạng. Kinh tế
tăng trưởng nhanh đưa đến kết quả thê thảm là hình thành một xã hội rạn nứt,
giả dối, tàn nhẫn, phi chuẩn mực. Đời sống gia đình ngày càng mục rã; con người
như điên loạn, yêu cuồng sống vội, chụp giựt, buông thả, cắm đầu hưởng thụ, sẵn
sàng đánh đổi mọi sự để có nhiều tiền hơn. Bên cạnh đó, hiện tượng giả dối lên
ngôi: bằng cấp giả, thông tin giả, báo cáo giả, danh hiệu giả, thành tích giả,
hàng hóa giả, thậm chí, sữa, bánh, thực phẩm và thuốc cũng bị làm giả”.
Tại sao một xã hội có truyền thống tôn trọng nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín, mà ngày nay đầy những thứ giả dối như vậy? Đó phải chăng
là hậu quả của một xã hội vô thần: chỉ biết gia tăng kinh tế mà không biết
gia tăng lòng đạo đức; chỉ biết tôn thờ khoa học kỹ thuật mà không biết
tôn thờ Thiên Chúa; chỉ biết cậy dựa vào quyền lực và của cải vật chất mà khước
từ sự cậy dựa vào Đấng Toàn Năng? Có thể tâm hồn và nhân cách Kitô giáo
chúng ta cũng đang bị tục hóa trong một xã hội như vậy.
Kinh lạy Cha chúng ta đọc xin cho lương thực hằng ngày dùng
đủ, nhưng thực tế thì chúng ta vẫn mơ ước và làm mọi cách để được giàu có. Khi
giàu có rồi, ta cậy dựa vào tiền của, coi tiền của là tất cả, “tiền là
tiên là phật…”. Sự giàu có khiến ta dễ xa rời Thiên Chúa và xa lìa tha
nhân. Tiền của lên ngôi sẽ lần hồi chiếm địa vị ưu tiên trong lòng người và
thay thế cho Thiên Chúa. Có nguy cơ là chúng ta hy vọng vào Chúa để được đời
này chứ không phải để được đời sau. Thánh Phaolô đã cảnh giác: “Nếu chúng
ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ
đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,19).
Qua sứ điệp Mùa Chay năm 2011, Đức Bênêđictô XVI cho
thấy: “Việc coi trọng tiền bạc quá đáng không những làm ta xa lìa tha nhân
nhưng còn làm cho con người mình trở nên trống rỗng, bất hạnh, sống ảo tưởng,
vì đã thay thế Thiên Chúa bằng các của cải vật chất. Làm sao ta có thể hiểu được
lòng nhân từ của Thiên Chúa nếu tâm hồn ta đầy tự mãn và những dự phóng riêng
của mình, tưởng mình có thể đảm bảo tương lai cho mình?”.
Thật ra, chúng ta có thể chiếm đoạt được mọi cái như mình
muốn, nhưng sau đó thì sao? Ta hãy nhớ lại dụ ngôn người phú hộ, ông ta
nói với chính mình rằng: “Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài
nhiều năm…nhưng Thiên Chúa bảo ông ta:“Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi
lại mạng ngươi...” (Lc 12,19-20).
Kinh nghiệm thực tế cho ta thấy: “Khi tiền bạc đi vào cửa trước
thì hạnh phúc lẻn ra cửa sau”. Tiền bạc có thể mua được mọi thứ nhưng
không mua được sự sống đời đời. Sự sống đời đời chỉ dành cho ai sống cuộc đời
mình với lòng cậy trông vào Chúa.
- Lòng cậy trông khiêm hạ và kiên trì (Mt 15,21-28)
Đây là câu chuyện người đàn bà Canaan xin Đức Giêsu cứu con
mình khỏi quỷ ám. Bà là người ngoại giáo, có lẽ đã nghe nói về một Đấng Messia,
nên bà cất bước đi tìm Ngài và đặt tất cả hy vọng vào Ngài. Nhưng rồi không dễ,
niềm hy vọng đó gặp phải thử thách nặng nề:
- Trước tiên là nạn kỳ thị của người Do Thái. Họ khinh rẻ và
loại trừ dân ngoại, vì tự hào mình là dân Thiên Chúa.
- Tiếp theo các môn đệ tỏ ra bực dọc: “Xin Thầy
bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”. Đức Giêsu
cũng từ chối bằng câu nói lạnh lùng: “Thầy chỉ được sai đến với những con
chiên lạc của nhà Israel”.
- Cuối cùng, Chúa Giêsu so sánh bà với chó: “Không nên
lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Rõ ràng bà bị xỉ nhục đến tột độ! Tưởng như lòng hy vọng của
bà đã lịm tắt. Nhưng lạ thay! Người phụ không cảm thấy mình bị xúc phạm, mà lại
nhẹ nhàng đón nhận thân phận thấp hèn của mình: “Thưa Ngài, đúng thế,
nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi
xuống”. Câu trả lời của bà thật hiền lành và khiêm tốn, khiến Chúa Giêsu
đã ra tay cứu chữa.
Đời sống ta cũng sẽ trải qua những chặng đường thử thách, vì
Chúa muốn thanh luyện và kiện toàn lòng tin của ta, để ta nên xứng đáng hơn với
ân huệ sẽ lãnh nhận. Hơn nữa, Chúa luôn có ý định nhiệm mầu trong mọi thử thách
đời ta. Chính nhờ thử thách, mà nét đẹp cao quí của tâm hồn người phụ nữ ngoại
giáo đã được bộc lộ, như một cách mời gọi thay đổi não trạng hẹp hòi và cái
nhìn trịch thượng của các môn đệ cũng như dân chúng.
Có khi cơn thử thách đời ta cũng trĩu nặng vô vàn, tưởng
chừng như sụp đổ tất cả những gì mà ta hy vọng nơi Chúa. Nhưng cũng giống như
trường hợp người phụ nữ trên: Chúa đẩy sự thử thách lên cao độ, nhưng Ngài vẫn
đứng đó, vẫn không rời xa hay ngoảnh mặt bỏ đi. Ngài vẫn chờ đợi sự đáp trả
cuối cùng của lòng tin yêu và hy vọng của ta. Chúa chẳng bao giờ để ai thất
vọng về Ngài, vì Ngài là Hy Vọng lớn nhất của nhân loại chúng ta,“và muôn dân
đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài” (Mt 12,21).
- Loan truyền niềm hy vọng
Khi bị bắt đưa ra tòa để tra hỏi, Phaolô đã mạnh dạn tuyên
xưng: “Và giờ đây tôi bị đưa ra toà chính là vì hy vọng điều Thiên Chúa đã
hứa cho cha ông chúng tôi... chính vì niềm hy vọng đó mà tôi bị người Do thái
tố cáo” (Cv 26, 6-7).
Niềm vui đời Kitô hữu là được sống trong niềm hy vọng nhờ
lòng Chúa thương xót. Niềm hy vọng đó phải được loan truyền cho mọi người, nhất
là những người còn nằm trong bóng tối sự chết. Thánh Phaolô khuyên nhủ:“Vì Chúa
hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức... vì mục
đích ấy mà chúng ta phải vất vả, phải chiến đấu” (1Tm 4,8-10).
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê đã xác tín về đức Hy Vọng như
sau: “Người hy vọng là người cầu nguyện. Ðối tượng của lời cầu nguyện cũng
là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa.
Ngài tìm họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài... Có hạng “công
giáo đợi chờ”, khoanh tay đợi niềm hy vọng đến. Có hạng “công giáo thụ động”,
“trốn tránh, vô trách nhiệm”. Họ chỉ biết “nhìn lên” để kêu cứu, mà không biết
“nhìn tới” để tiến,”nhìn quanh” để chia sẻ, gánh vác. Niềm hy vọng đang ở giữa
họ, mà họ không hay! Không thể quan niệm được một Kitô hữu không mê say
đem hy vọng ngập tràn thế giới”. Quả thật, loan truyền niềm hy vọng là
loan báo Tin Mừng, vì Tin Mừng chính là niềm hy vọng được cứu rỗi nhờ Đức Kitô.
Có biết bao người xung quanh ta mong có được niềm hy vọng đó, họ muốn thấy nó
được tỏ lộ trong đời sống chúng ta như dấu chỉ đích thực của niềm Hy Vọng.
Tạm kết
Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn ngắm Đức Maria như một mẫu
gương sáng ngời của niềm Hy Vọng. Mẹ đã đón nhận niềm hy vọng, nuôi dưỡng niềm
hy vọng, sống niềm hy vọng, tuyên xưng niềm hy vọng, loan truyền niềm hy vọng.
Dấu chỉ lớn lao nhất của những hy vọng trên là khi đến hồi viên mãn, Mẹ được
đưa về Trời cả hồn lẫn xác. Việc Mẹ được vinh hiển trên Thiên quốc đoan quyết
với chúng ta rằng, Đức Kitô sẽ ban sự sống đời đời cho những ai đặt niềm hy
vọng nơi Ngài. Đức Maria đã trở thành ánh sao hy vọng, và là niềm hy vọng
cho chúng ta sẽ được cùng với Mẹ một ngày kia trên quê hương thiên quốc.
Sống trên đời này, chúng ta gặp nhiều thử thách về Đức Cậy:
có những điều quá buồn làm tinh thần chúng ta suy sụp; có những cái quá cực làm
chúng ta ngã quỵ; có những thứ quá đau làm chúng ta điêu đứng; có những việc
quá lo làm chúng ta chán nản; có những tình cảnh quá sợ, làm chúng ta bồn chồn
thao thức... Trong cuộc đời của Đức Mẹ cũng thế, Mẹ cũng gặp những
điều quá buồn (Mt 1,18-19; Ga 19,25-30); những cái quá
cực (Lc 2,7) những thứ quá đau lòng (Lc 2,34-35; Ga
19,31-34); những việc quá lo (Lc 2,46); những tình cảnh quá
sợ (Mt 2,16)... Thế nhưng Mẹ đã nương tựa vào Thiên Chúa để sẵn lòng đón
nhận tất cả và hiến dâng tất cả cùng với Con mình, đem lại ơn cứu độ cho nhân
loại. Nhờ đó, Mẹ lại trở thành Hy Vọng cho chúng ta: Salve Regina…et Spes
nostra! Lạy Nữ vương...(nguồn sống vui) và Hy Vọng của chúng con!
Ta cũng hãy dùng lời tự tình của thánh Têrêxa làm lời ngỏ
với chính tâm hồn mình: “Hy vọng đi, hồn tôi hỡi, hãy hy vọng! Bạn không
biết ngày nào và giờ nào. Hãy tỉnh thức, mọi sự qua đi nhanh chóng, vì quá nóng
lòng nên bạn hoài nghi điều chắc chắn và cảm thấy quá dài khoảng thời gian vắn
vỏi. Hãy nhớ rằng, bạn càng chiến đấu, càng chứng tỏ tình yêu đối với Thiên
Chúa, và càng vui sướng hơn, một ngày kia với Ðấng lòng bạn yêu mến, trong niềm
hạnh phúc và say mê bất tận” (Tự Thuật 15, 3).
III. ĐỨC MẾN
“Có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có
đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.” (1Cr 13, 2)
Mọi người được sinh ra bởi tình yêu và cho tình yêu. Căn
tính của con người là tình yêu. Lề luật tối cao để triển nở cuộc sống toàn diện
cũng là tình yêu. Con người nhờ có lý trí nên vượt lên trên các loài thụ tạo,
nhưng sống nhờ tình yêu hơn là nhờ hiểu biết. Tình yêu trở thành nhu cầu
thiết yếu và động lực chính yếu cho mọi hoạt động của con người, làm cho con
người trở nên chính mình và đạt đến cùng đích đời mình. Đức Gioan Phaolô II xác
định: “Con người không thể sống mà thiếu vắng tình yêu. Họ sẽ không
hiểu họ là gì, sẽ cảm thấy cuộc đời họ là vô nghĩa, nếu họ không đón nhận mạc
khải tình yêu, không gặp gỡ tình yêu, không cảm nghiệm tình yêu, không đồng hoá
tình yêu, không mạnh dạn tham dự vào tình yêu”(RH 10).
1. Thuật ngữ “Đức
Mến”
Đức Mến (ái đức) trong tiếng Hán - Nôm với ý chính
như sau:
Đức Mến: ơn yêu thương.
Xét về căn ngữ, Đức Mến có một lịch sử hình thành riêng từ
Thánh Kinh. Để chỉ về tình yêu, Thánh Kinh Hipri sử dụng động
từ ahab và danh từ ahabah. Sách Đệ nhị luật dùng ahab
và ahabah để diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Bản Kinh Thánh
Bảy Mươi đã dịch ahab, ahabah qua tiếng Hy Lạp thành agapao,
agape. Để nói về tình yêu, đặc biệt là tình yêu nam nữ, người Hy Lạp xưa
thường dùng từ Eros[1].
Từ Eros được nhắc đến hai lần trong Cựu Ước, nhưng
nó không còn xuất hiện nữa trong Tân Ước. Trong ba từ diễn tả tình yêu trong
tiếng Hy
Lạp: Eros (έρως) Philia (φιλία)và Agape (αγάπη), các
sách Tân Ước chỉ dùng từ Agape, là một từ rất ít dùng trong thường ngữ Hy
Lạp. Còn từ Philia được thánh Gioan dùng để diễn tả tình bằng hữu
giữa Đức Giêsu với các môn đệ (Ga 21,15-18) và được thánh Matthêu dùng để chỉ
tình yêu gia đình hay huynh đệ trong cộng đoàn (Mt 10,37).
Dù chủ đề tình yêu đã được luận bàn sâu rộng trong văn
chương thế giới, cách riêng trong văn minh Hy Lạp và Rôma, nhưng vẫn còn điều
gì thiếu sót. Vì vậy, các tác giả Tân Ước phải chọn một danh từ mới
là Agape (dùng 117 lần) và động từ Agapetos (dùng 137 lần)
để diễn tả tình yêu Thiên Chúa.
Tiếng Việt cũng rất dồi dào từ ngữ để diễn tả về tình yêu,
nhưng xem ra không có từ nào tương đương với Agape (Hy lạp)
hoặc Caritas (Latinh) để biểu hiện như danh hiệu của Thiên
Chúa: “Deus Caritas Est”, (Thiên Chúa Là Tình Yêu). Đó là danh từ duy
nhất mà Tân Ước sử dụng (agape/caritas) để diễn tả vừa bản tính Thiên Chúa, vừa
là cách cư xử của Ngài với con người, vừa là cách chúng ta phải cư xử với Thiên
Chúa và tha nhân.
Sở dĩ chọn ra một từ riêng biệt, vì muốn nói lên sự độc nhất
vô nhị của tình yêu Thiên Chúa, mà không có thực tại nào trên đời có thể so
sánh. Chẳng hạn ta yêu ai là vì cảm thấy bị thu hút bởi điều gì tốt lành nơi
họ. Còn tình yêu Thiên Chúa không bị thu hút bởi điều tốt lành bên ngoài, nhưng
chính tình yêu Ngài đã dựng nên điều tốt lành, không chỉ qua việc tạo dựng, qua
việc trao ban sự sống, mà nhất là qua việc trao ban Con Một của Ngài (x. Ga
3,16). Ngài yêu thương con người như chính Con Ngài, và cho họ khả năng tiếp
nhận tình yêu ấy để yêu thương như Ngài.
2. Ý nghĩa của tình yêu trong Đức Mến
Thiên Chúa là Tình Yêu, nên“Tình yêu là điều duy nhất có thể
lấp đầy trái tim con người và giúp con người xích lại gần nhau hơn. Khi chúng
ta lãng quên Thiên Chúa, chúng ta đánh mất hy vọng và không thể yêu thương
người khác”[2].
Đức Mến không phải là thứ tình yêu thường tình được diễn cảm
theo bản năng, nhưng là tình yêu sâu đậm và bền vững bắt nguồn từ Thiên Chúa,
Đấng đã yêu thương nhân loại chúng ta bằng một tình yêu thuần khiết, vô giới
hạn, cụ thể qua việc sáng tạo và cứu chuộc. Thiên Chúa đã ghi khắc tình yêu của
Người vào lòng mỗi người chúng ta, nhưng nó còn phải được tinh luyện hằng ngày
để đạt tới tầm vóc của Đức Kitô, Đấng đã hiến mình vì yêu.
- Đức Mến theo Thánh Phaolô
Tất cả 14 thư của thánh Phaolô sắp theo thứ tự từ dài đến
ngắn là giáo huấn súc tích về Đức Mến. Tuyệt vời nhất là “Bài Ca Đức
Mến” (1Cr 13,1-13). Bài ca này có ba đợt sóng nối tiếp nhau:
- Đức Mến cao quí hơn tất cả (1-3): không
đức mến thì mọi tài năng, công đức, ngay cả hy sinh mạng sống cũng thành không.
- Đức Mến là mẹ các nhân đức (4-7): diễn tả
một tâm hồn thật cao đẹp, gồm 8 điều không và 7 điều có:
+ 8 điều không: không ghen tương, không vênh
vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng
giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy điều gian ác.
+ 7 điều có: nhẫn nhục, hiền hậu, vui khi
thấy điều chân thật, tha thứ, tin tưởng, hy vọng, chịu đựng.
- Đức Mến tồn tại muôn đời (8-13). Đây là
tính cách trường tồn tuyệt đối, trọn vẹn tuyệt đối và ưu việt tuyệt đối của
tình yêu. Đức Mến là ngọn lửa nung nấu đức tin, là ánh sáng soi chiếu Đức Cậy,
để hướng đến đích điểm là Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đức Mến cao vượt hơn tất cả mọi hồng ân đặc sủng (1Cr 12,
31), cao hơn cả Đức tin và Đức cậy (1Cr 13,3). Đức mến là nhân đức tóm kết mọi
giới luật. Đức mến là tình yêu Thiên Chúa cắm rễ sâu trong tim ta, giúp ta
thống nhất các động cơ khác nhau, thúc đẩy sự khát khao tìm kiếm Đấng mà ta yêu
mến, và mời gọi ta biến tất cả thành tình yêu của con thảo và huynh đệ (1Cr
13,4-6).
- Theo thánh Gioan.
Thánh Gioan xác quyết: “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên
Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết
Thiên Chúa. Ai không yêu thương là không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình
yêu” (1 Ga 4,7-8).
Thánh Gioan giải thích tiếp: “Tình yêu của Thiên Chúa
đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế
gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... Nếu Thiên Chúa đã
yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga
4,9-11). Như vậy, tình yêu trong Đức Mến là tình yêu gắn chặt làm một giữa
ta với Thiên Chúa và tha nhân, và mẫu mực tuyệt vời chính là Thầy Giêsu: “Thầy
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 13,35).
Không phải bất cứ thứ tình yêu nào mà chúng ta muốn có,
nhưng là tình yêu “như Thầy đã yêu thương”. Cuộc đời sẽ ảm đạm, u
buồn, và tối tăm biết bao khi ta không thể yêu thương được. Nhưng nếu yêu
thương theo cảm tính, cảm hứng, yêu không đúng hướng và đúng cách, không chân
thật và sâu xa, hoặc yêu như mình muốn yêu, thì chỉ gây thêm thống khổ và
nghiệt ngã cho nhau. Vì thế, mô mẫu của tình yêu là phải “yêu như
Thầy.”. Đó chính là tình yêu của Đức Mến: “Ðức Mến bảo đảm thanh
luyện và nâng khả năng yêu thương của con người lên mức hoàn thiện siêu nhiên,
trở thành tình yêu thiêng liêng” (GLCG 1827).
Thánh Phanxicô Salê diễn tả về Đức Mến như sau:
Con người là sự hoàn mỹ của vũ trụ;
Tinh thần là sự hoàn mỹ của con người;
Tình yêu là sự hoàn mỹ của tinh thần;
Và Đức Mến là sự hoàn mỹ của tình yêu;
Bởi vậy yêu mến Chúa là cùng đích của sự hoàn mỹ [3].
Đức mến là chính sự hiện diện của Thiên Chúa trong ta. Ngài
giúp ta sàng lọc những động cơ thấp hèn và thúc đẩy ta vượt ra khỏi sự
cuộn tròn trên chính mình. Như tình mẫu tử, đức mến hướng ta đến người khác,
một cách nhẹ nhàng, nhưng cũng mãnh liệt để hiến thân cho những gì là thiện
hảo.
2. Đức Mến trong mọi tương quan
- Với Thiên Chúa. Yêu mến Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa, vì
giá trị tuyệt đối và sự tốt lành vô biên của Ngài (x. Mt 22,37), vì lòng nhân
hậu của Ngài đối với chúng ta (x. 1Ga 4,19). Yêu mến Thiên Chúa cũng chính là
yêu điều Ngài yêu, muốn điều Ngài muốn. Cụ thể là yêu mến Đức Kitô: “Vì
Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl
3,8).
- Với chính mình. Đức Mến đòi ta phải yêu mình hơn yêu tha
nhân. Vì chính mình được Chúa yêu, nên ta phải yêu mình với tình yêu của Chúa.
Nếu không biết yêu mình, làm sao ta có thể yêu tha nhân “như chính
mình”? Yêu mình không phải là chiều chuộng mình, mà là yêu phần rỗi của mình,
nên không ngại từ bỏ mình, vác thập giá, và hy sinh chính mình. Tình yêu là
hiệp nhất, nên yêu mình là cách thức và là căn nguyên hợp nhất.
- Với tha nhân. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân vẫn
là một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Không phải chúng ta yêu tha nhân mà
chính Thiên Chúa yêu mến họ trong chúng ta. Tha nhân không phải là phương tiện
để yêu mến Thiên Chúa, nhưng là cứu cánh. Nên ta chỉ thực sự yêu tha nhân vì
chính họ, cũng là yêu mến Thiên Chúa trong chính tha nhân.
- Với vũ trụ vạn vật. Yêu mến Thiên Chúa khiến ta yêu mến
muôn loài muôn vật trong vũ trụ mà Ngài đã tạo thành (GS 37, 4). Mỗi người
là một tổng thể hay một hợp thể của toàn thể vũ trụ. Mọi sự ở trong ta và ta ở
trong mọi sự. Bản thân, tha nhân, vạn vật, tự bản chất đã liên kết làm một
trong Thiên Chúa. (x.1Cr 3, 22-23).
Trong tương quan mầu nhiệm như vậy, nên bất cứ hành vi nào
ngược với Đức Mến đều là tội lỗi. Sự thánh thiện cũng vậy, không hệ tại ở các
đặc sủng hay hiện tượng thần bí, nhưng là sống Đức Mến ở mức độ cuối cùng. Vì thế, Đức Mến là “hồn” của các nhân đức (x.
1Cr 3,1-3). Một công việc được đánh giá cao không dựa vào thành tích lớn lao,
nhưng dựa vào lòng mến.
3. Suy tư về Đức
Mến
Đức Mến là lý tưởng thiện toàn mà chúng ta mỗi ngày phải
từng bước xích lại gần hơn. Cần chấp nhận sự yếu đuối và thất bại của mình mà
không buồn phiền, thất vọng. Khi được đức mến chiếm hữu, ta sẽ tràn đầy quyền
năng của tình yêu: có thể làm bất cứ việc gì, đương đầu với bất cứ điều gì,
chịu đựng bất cứ cái gì, để đem lại thiện ích cho mình và tha nhân. Mọi sự rồi
sẽ qua đi, nhưng lời nói yêu thương, việc làm yêu mến sẽ tồn tại muôn đời.
- Tình yêu và việc làm
Vấn đề được nêu lên: Đức Mến cốt yếu ở “tình” hay ở
“việc”? Thánh Gioan khuyên: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi
chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga
3,18). Nhưng khi quá chú trọng đến công việc, ta lại quên nguồn gốc của nó là
tình yêu. Nếu người làm cha làm chồng mà quá bận rộn công việc, không còn giờ
bên vợ con, thiếu quan tâm và cử chỉ ân cần, hay nóng nảy, gắt gỏng, như vậy
ông có thật sự yêu vợ con? Vợ con có cảm nhận được tình yêu của
ông?
Đức Mến phải chứng tỏ qua những công việc cụ thể (bao hàm
hành động, thái độ, cử chỉ, hành vi, ánh mắt, lời nói) nói lên lòng ưu
ái. Tuy nhiên, hành vi cốt yếu của Đức Mến là “yêu” chứ không phải
“việc”. Mến Chúa là như thế, ưu tiên không phải là công việc của Chúa, mà
là chính Chúa. Ta có thể làm mọi việc bác ái, nhưng chưa chắc đã có tình
yêu. Vì thế, ngay những người tật nguyền, đau ốm, già yếu, dù không còn làm
được gì, nhưng họ vẫn có thể sống một tình yêu mến cao độ.
Cũng vậy, ta có thể ôm ấp hết mọi người trong con tim, cho
dù ta không thể giúp đỡ hết mọi người theo nhu cầu của họ. Mặt khác, khi nói
đến tâm tình, ta nên hiểu về ý chí chứ không phải là cảm xúc đơn
thuần. Yêu tha nhân không phải chỉ chứng tỏ qua những công việc bên ngoài,
nhưng cốt yếu là tâm tình. Chính tâm tình định hướng cho mọi công việc phải
thực hiện như thế nào.
- Đức Mến và sự thật
Yêu mến Thiên Chúa cũng chính là yêu mến sự thật (2Tx 2,10),
vì Thiên Chúa là Đấng chân thật, Ngài yêu thích tâm hồn chân thật (x. Tv 51,8).
Sự thật là ánh sáng trao ban ý nghĩa và giá trị cho tình yêu. Không có sự thật,
tình yêu hóa thành cảm tính, trở thành vỏ ốc trống rỗng, chỉ là sự lấp đầy
những gì mình yêu thích. Đó là nguy cơ lớn mà tình yêu phải đối mặt trong một
nền văn hóa thiếu sự thật hay chân lý. Vì khi đó “tình yêu” trở thành tế vật
cho những xúc cảm và lập trường chủ quan, một từ ngữ bị lạm dụng và nát vụn đến
độ mang ý nghĩa đối nghịch.
Sự thật giải thoát tình yêu khỏi sự hạn hẹp của chủ
nghĩa duy cảm, là thứ tước đoạt nội dung xã hội và tương giao của tình yêu. Sự
thật cũng giải thoát tình yêu khỏi thứ chủ thuyết duy tín, tước đoạt ý
nghĩa nhân văn và vũ trụ của tình yêu, ngăn chận tình yêu có tầm nhìn nhân bản
và phổ quát. Trong sự thật, tình yêu phản ánh niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng vừa
là Agape - Tình Yêu, vừa là Logos - Lời Chân Lý. (DCE 3).
Đức Mến là nền tảng mọi nhân đức, nên nó biểu hiện cốt lõi
bên trong hơn là những hành vi bên ngoài; biểu lộ tâm hồn hơn là với kiểu cách
hành động. Tuy Đức Mến không nói với chúng ta những gì phải làm cách cụ
thể, nhưng điều cơ bản là nó giải tỏa áp lực của tính duy ngã, thúc đẩy ta
sống trung tín, công bằng tiết độ, nhiệt tình, can đảm... “Như nước dập
tắt lửa thế nào thì Đức Mến cũng tiêu hủy tội lỗi như thế.” (Thánh Gioan
Thiên Chúa).
4. Sống Đức Mến
Trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky
có đoạn như sau: “Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo
dựng nên. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu
nhiệm có trong tất cả mọi sự”. Nhà danh họa Van Gogh, đã nói một câu tương
tự: “Cách thức tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương tất cả”.
Tình yêu là một điều rất tự nhiên trong đời sống con người,
ai chẳng muốn yêu và được yêu, vì tình yêu đem lại niềm vui và hạnh phúc cho
nhau. Tuy nhiên, khi đi vào cuộc sống với những va chạm, tình yêu dễ bị lệch
lạc, và nhiều khi mâu thuẫn ngay trong chính mình. Tội lỗi đã làm hư hỏng từ
bên trong con người, nên tình yêu cũng dễ bị hoen ố và hư hoại.
Thông điệp Deus Caritas est cho thấy: chưa bao giờ
hai chữ “tình yêu” bị lạm dụng như ngày hôm nay. “Yêu” là một từ ngữ được sử
dụng nhiều nhất, nhưng lại dễ gây hiểu lầm nhất. Có nhiều loại “tình” chỉ là sự
trá hình của tình yêu đích thực. Để biết yêu và đón nhận tình yêu đúng nghĩa
thì quả thực gian nan, trắc trở:“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Để
yêu thương thì phải chấp nhận đau thương. Tuy nhiên, chiến thắng sau cùng vẫn
là tình yêu. Tình yêu đem lại cho ta một sự sống mới trong an bình và hạnh
phúc, đưa ta tới một khung trời tươi sáng và hưởng kiến Thiên Chúa sau đêm dài
của thử thách và thanh luyện.
Chúng ta không bao giờ gặp được tình yêu trong tình trạng đã
tốt đẹp và sẵn có, nhưng phải làm tăng trưởng mãi, vì là một tiến
trình vươn tới sự hoàn thiện. Đã là tình yêu của Đức mến
thì không mong chiếm hữu mà
tìm thấy niềm vui trong sự trao ban. Tình yêu này vẫn
tỏa lan khi người khác không đáp trả, không biết ơn, không dễ thương, không
xứng đáng.
- Tình mến của người Samari nhân hậu (Lc 10, 25-37).
Chúa Giêsu làm nổi bật đức mến khi đưa ra dụ ngôn người
Samari nhân hậu cứu giúp người Do Thái bị trấn lột trên đường Giêricô. Đang khi
thầy Tư tế và Lêvi cố tình né tránh tình trạng dở sống dở chết của người anh em
đồng đạo, thì người Samari ngoại giáo lại tha thiết chú tâm đến nạn nhân. Anh
ta làm tất cả những gì có thể làm được để cứu người bị nạn, không sợ liên lụy
hay hao tốn tiền của, dù nạn nhân đó là người xa lạ và gần như là kẻ thù. Anh
ta hành động vì tiếng nói của con tim, bất chấp nguy hiểm. Còn thầy Tư tế và
Lêvi thì hành động theo lý lẽ và lề luật, lo vào đền thờ để dâng tiến hy lễ. Họ
làm ngược lại lời Thiên Chúa mà họ vẫn đọc: “Ta muốn tình yêu chứ không
cần hy lễ” (Hs 6,6).
Qua dụ ngôn, “Chúa Giêsu dạy ta bắt chước người Samari
nhân hậu, là biểu hiện của chính Ngài. Hãy lên đường với trái tim; lắng nghe
với trái tim; hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để
trái tim tham dự vào mọi lời nói, cử chỉ, suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim trên
khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự
sống đời đời”[4].
- Tình Mến của Phêrô (Ga 21,15-19)
Tình mến của Phêrô rất gần gũi với chúng ta là những con
người yếu đuối. Ông đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Thầy (x. Mt 4,18-20); mạnh
dạn tuyên xưng đức tin (x. Mt 16,16); quyết sống chết với Thầy (x. Mt
26,33-35); rút gươm bảo vệ Thầy (x. Mt 26,51). Quả là một tình yêu không mạnh
mẽ, nhưng ngay sau đó là yếu đuối, kém tin, sai lạc, vấp phạm, nhát đảm, và sau
cùng là chối Thầy. Khi nhận ra cái nhìn tràn đầy tình thương của Thầy, ông đã
ra ngoài “khóc lóc thảm thiết”. Dù hèn kém, dù thất bại ê chề, dù chẳng
còn ra gì, ông vẫn nhiệt tình yêu mến Thầy.
Gặp lại sau phục sinh, Chúa Giêsu lại nhìn ông và
hỏi: “Simon Phêrô, anh có mến Thầy không?”. Ngài hỏi Phêrô đến
ba lần về tình yêu mến trước khi giao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên cho
ông. Dưới cái nhìn của thánh sử Gioan, thì Chúa xây dựng Hội Thánh trên
Đức Mến của thủ lãnh, của cộng đoàn. Chỉ với lòng yêu mến, Phêrô mới hoàn thành
trách vụ lớn lao. Đức mến cao trọng hơn tất cả là vì thế! Chúa Giêsu
không đòi hỏi gì khác ngoài tình yêu là điều kiện tối ưu để Ngài giao trách
nhiệm. Quả thật, “thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến!” (Gioan Vianey).
Tạm kết
Chúng ta đã đào sâu ba nhân đức Tin, Cậy,
Mến. Cả ba nhân đức đều là ân ban của Thiên Chúa và qui hướng về Thiên
Chúa là cùng đích. Cả ba nhân đức đều bén rễ từ ba nhu cầu căn bản của con
người: nhu cầu hiểu biết chân lý; nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc; nhu cầu yêu
thương và được yêu thương. Nhu cầu thứ ba của Đức Mến mới là nhu cầu lớn
nhất, thâm sâu nhất, để có thể hoàn thành cuộc đời mình trong chương trình của
Thiên Chúa.
Tuy là ba nhân đức với ba thái độ sống khác nhau, nhưng cũng
chỉ một thực tại sống động, tức là mối tương quan tình nghĩa của con người đối
với Thiên Chúa và với nhau. Cả ba nhân đức đều hợp thành một tâm tình sống
duy nhất, không thể tách rời:“Ðức tin mà không có đức cậy và đức mến, sẽ không
kết hợp trọn vẹn người tín hữu với Ðức Kitô, và không làm cho họ trở nên chi
thể sống động trong Thân Thể Ngài” (GLGH 1815).
Hãy nhìn về Đức Maria, Mẹ của lòng Tin, Cậy, Mến. Cả ba
phẩm tính này đã đúc kết nên sự duy nhất trong toàn thể con người Mẹ, đã hòa
nhập nên một trong trái tim Mẹ. Và cuối cùng với đỉnh cao là Đức Mến trong sự
sống muôn đời, “Mẹ đã trở thành nguồn suối của lòng từ bi nhân hậu tuôn
chảy từ Thiên Chúa cho nhân loại” (DCE 42).
Lm. Thái Nguyên
[2] Abbot-Smith,
G. A Manual Lexicon of the Greek New Testament (Edinburg: T&T.
Clark, 1937), p. 361-62.
[1] Eros là tình yêu nhục dục theo bản năng, mang tính vị kỷ,
chiếm đoạt. Kitô giáo không phủ nhận tình yêu này, nhưng nó phải nằm trong tiến
trình thanh lọc và trưởng thành, để hướng đến tình yêu Agape, là tình yêu vị
tha, dâng hiến, thì mới phù hợp với phẩm giá con người. Quan niệm tình yêu
của Kinh Thánh không tách lìa với quan niệm tình yêu của nhân
loại, nhưng mở ra những chiều kích mới cho tình yêu. Tình yêu là
một thực tại duy nhất, dù có nhiều chiều kích: đừng để các chiều
kích hoàn toàn biệt lập, tình yêu sẽ trở thành bức hí hoạ. Tình yêu hướng
tới đời đời, là con đường luôn mở để vượt qua cái “tôi” khép kín, là tình
yêu hy sinh để gặp được chính mình và Thiên Chúa (Lc 17, 33) (x. Deus
veritas est, số 3-8).
[2] Đức Bênêđictô, Sứ điệp hướng về ngày Quốc Tế Giới Trẻ
2013.
[3] Françoir de Sales, traite de l’amour de Dieu, x, 1.
[4] Đức Cha Ngô Quang Kiệt, Chia Sẻ Lời Chúa - Chúa Nhật
15 Thường Niên C.