Nhân đọc bài “Giáo dục ở nước ta hiện nay đi ra bằngcon đường nào” của nhà văn Nguyên Ngọc (xem NS Cg & Dt số 158), tôi
bèn liên hệ với chủ đề “Giáo dục Kitô giáo” và thấy rằng chính bản thân Kitô
giáo cũng cần có cho mình một triết lý giáo dục. Bảo rằng Kitô giáo cần
triết lí giáo dục như vậy thật khó mà được chấp nhận, bởi như thế khác nào nói
giáo hội xưa nay không có triết? Thật sự thì vẫn có triết đấy nhưng đó là triết
duy lí vốn vẫn được gọi dưới danh xưng là thần học, là đệ nhất triết học, là
khoa học Thánh… Với cái gọi là khoa học này thì Thiên Chúa trước sau vẫn chỉ là
một thứ khái niệm, một thứ ý tưởng mà người ta có về Ngài chứ không phải là
Ngài.
Giáo dục chỉ là một bộ phận thế nên tất nhiên không thể thoát ra ngoài ảnh hưởng của giáo hội, hay nói cách khác, nó hoàn toàn nằm trong sự chi phối của các trào lưu tư tưởng thần học. Chính do nơi sự chi phối ấy nên mới có những khác biệt nhau nơi này nơi kia, lúc này lúc khác, về đường hướng, về quan điểm giáo dục. Ở đây ta thấy có hai quan điểm chủ yếu tạm phân chia ra hai thời kì, trước và sau Công đồng Vatican 2. Trước đây, khi nhấn mạnh vào lòng tin Đấng Thiên Chúa thưởng phạt công minh: có Thiên Đàng, có Hỏa Ngục, Luyện Ngục thì đường hướng giáo dục tập trung vào việc học giáo lí kinh bổn cốt sao cho được rỗi linh hồn. Nhưng càng về sau, nhất là trong những năm gần đây, phương hướng giáo dục ấy tuy không bãi bỏ nhưng mặc nhiên bị coi là không thích hợp và giáo hội hiện nay muốn canh tân đặt trọng tâm vào giáo dục nhân bản. Niềm tin nơi Đấng Thiên Chúa thưởng phạt đã được thay thế bởi Đấng Thiên Chúa Tình Yêu. Thật sự thì lòng tin chân thành vào Đấng Thiên Chúa chí công cũng là điều rất tốt. Thế nhưng đã đến lúc không nên và cũng không thể duy trì mãi được sự tin tưởng ấy nữa, nhất là trong cái thời mà chính thần học lại muốn hợp thức hóa cái chết của Thiên Chúa bằng một thứ quan điểm phải nói là hết sức quái gở: “Thần học về cái chết của Thiên Chúa” (Théologie de la mort de Dieu) Thần học mà lại là về cái chết của Thiên Chúa thì thật không sao hiểu nổi! Thế nhưng đây lại là thực tế và ngày nay chúng ta không xa lạ gì với những ngôn từ đại loại như kỷ nguyên hậu Kitô, phi Kitô giáo hóa, tính hiện đại, hậu hiện đại, tục hóa, giải trừ Kitô giáo… Có người còn nói tục hóa là một tiến trình không thể đảo ngược.
Phong trào tục hóa (Secularisme) được khởi phát vào những
năm đầu thế kỉ XX bởi những nhà thần học Tin Lành như Harvey Cox, Paul Tillich,
Hamilton, Nieburg… Tục hóa không có nghĩa là hoàn toàn chối bỏ tôn giáo nhưng
đặt tất cả dưới khía cạnh tương đối kể cả đức tin lẫn đạo đức. Những kẻ chủ
trương tục hóa nói rằng mình vẫn tin tưởng Thiên Chúa nhưng không phải là Đấng
Thiên Chúa nghiêm khắc chỉ ưa chuyện báo thù mà là Đấng luôn yêu thương tha
thứ. Họ nói rằng mình vẫn tin vào Đức Giêsu nhưng là đức Giêsu làm người, sống
và chết cho hạnh phúc con người. Với những lập luận như thế tất nhiên không thể
không đưa tới hệ quả là đạo đức Kitô đã bị thay thế bởi một thứ nhân bản giả
hiệu, lấy cái học làm người để thay cho cái học làm Thánh. Cùng đích của cái
học làm người chỉ có thể làm người. Không ai học làm người mà có thể làm một
thứ gì đó khác hơn là làm người. Đang khi ấy một khi chúng ta đã thuộc về giáo
hội mà giáo hội cũng tức là Hội Thánh thì hết thảy Kitô hữu chẳng trừ một ai
đều được ơn kêu gọi để nên Thánh “Bây giờ tôi giao thác anh em cho Đức Chúa
Trời và cho đạo ân sủng Ngài là đạo có thể gây dựng và ban cho anh em cơ nghiệp
trong vòng hết thảy những người được nên Thánh” Cv 20 – 32.
Nên Thánh là ước vọng vô cùng cao trọng đáng lẽ phải theo
sao lại bỏ đi để học lấy cái học làm người? Nên Thánh cũng tức là con đường
trọn lành mà Đức Kitô muốn ta phải theo. Lần kia có người đến hỏi Chúa Giesu “Tôi
phải làm chi để được sự sống đời đời? Chúa đáp nếu ngươi muốn vào sự sống hãy
giữ các giới răn chớ gian dâm giết người chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha
mẹ, hãy yêu kẻ lân cận như mình. Gã trai trẻ đó thưa rằng: mọi điều ấy tôi đã
vâng giữ rồi, còn thiếu chi nữa? Chúa Giêsu phán rằng: nếu ngươi muốn nên trọn
lành hãy đi và bán hết của cải ngươi mà cho kẻ nghèo thì ngươi sẽ có của báu ở
trên trời rồi hãy đến theo Ta” Mt 19, 16-21.
Chúng ta ai cũng biết gã trai đó sau khi nghe Chúa nói đã
buồn rầu bỏ đi vì người có tài sản nhiều lắm” Mt 19,22. Gã trai trẻ ấy đã vẫn
giữ tất cả các giới răn cần giữ đó là điều rất tốt. Dẫu vậy đó cũng mới chỉ là
cái đạo làm người. Đức Kitô xuống thế chịu biết bao khổ nhục đến nỗi phải bị
chết treo trên thập giá không phải để cho ta chỉ sống cái đạo làm người nhưng
là để nên Thánh. Nói vậy không có nghĩa nên Thánh tức đương nhiên có thể bỏ qua
đạo làm người. Tuy vẫn sống và sống tốt cái đạo làm người là đằng khác, nhưng
không thể chỉ dừng ở đó mà cần phải siêu việt khỏi nó. Người thanh niên sau khi
thưa rằng mình đã giữ tốt các giới răn nhưng khi nghe Chúa nói phải bán hết gia
sản để theo Ngài thì anh ta bèn tháo lui. Như vậy là chưa siêu việt được mình
tức có nghĩa còn thấy có mình cùng với tài sản của mình. Chưa siêu việt được
mình dù cho là có tuân giữ chặt chẽ các giới răn thì đó vẫn còn ở trong phạm vi
luân lí chứ chưa phải là đạo giải thoát xuất thế. Muốn siêu xuất thế gian thì
chẳng có cách nào khác ngoài con đường bỏ mình theo
Chúa “Ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà
theo” Mt 16,24
Bỏ mình không có nghĩa là đánh mất mình (vong thân) nhưng là
để tìm lại con người thật (chân nhân) của mình. Toàn bộ giáo dục Kitô giáo như
vậy cần phải hướng tới mục đích để sao cho mỗi người có thể nhận biết và sống
với Con Người Thật ở nơi chính mình.
Nói cần nhận biết và sống với Con Người Thật. Vậy chẳng hóa
ra trong bấy lâu nay chúng ta vẫn chưa nhận biết và sống với con người thật hay
sao? Quả có như vậy, bởi lẽ rằng nếu đúng là con người thật thì ta đâu có ngu
muội dốt nát với bao nhiêu thứ dục vọng thấp hèn cùng với hậu quả của nó là
phải sống thường trực trong đủ mọi thứ lo âu sợ hãi. Sợ đói khát, sợ thiên tai
dịch bệnh, sợ kẻ thù khủng bố, sợ cô đơn, sợ nghèo, sợ chết v.v.. và v.v…
Tôn giáo có mặt là để đem đến cho con người giải thoát tức
hết sợ. Thế nhưng người ta chỉ thật sự đặt vấn đề về sự giải thoát khi họ đã
nhận thức được sự trói buộc và khổ đau bởi sự trói buộc ấy. Chính bởi lẽ đó nên
Đức Kitô mới tuyên bố một lời mà xét ra cũng không mấy dễ hiểu “Ta đến không
phải để kêu gọi người công chính bèn là kẻ có tội” Mt 9,13. Tại sao Chúa không
kêu gọi kẻ công chính lại là kẻ có tội? Lí do kẻ công chính được nói tới ở đây
ám chỉ những người đã và đang an tâm với cuộc sống luân lý của mình cũng giống
như gã trai trẻ kia tuân giữ các giới răn. Có lòng yêu thương bố thí cho người…
Đối với những người này thì họ sống như thế là được lắm rồi đâu có cần chi đến
cứu vớt giải thoát? Ngược lại những kẻ nghèo hèn tội lỗi cảm thấy mình khổ sở
điêu đứng bị người khinh chê chèn ép mới cầu được cứu vớt và Chúa cũng chỉ cứu
được những người ấy bởi vì họ muốn. Dụ ngôn hai người cùng lên đền thờ cầu
nguyện đã cho ta thấy tính chất cứu độ là như vậy. Phải muốn phải xin thì mới
được. Trái lại không muốn không xin thì không thể mặc dầu Thiên Chúa vốn dĩ là
Cha vô cùng nhân từ, Đấng là Tình Yêu (1Ga 4,8).
Đạo Chúa là đạo cứu rỗi “Hỡi anh em là con cái thuộc dòng
dõi Apraham và kính sợ ĐCT trong anh em. Đạo về sự cứu rỗi này đã truyền đến
cho chúng ta rồi” (Cv 13,26). Đúng đạo Chúa là đạo cứu rỗi nhưng đạo ấy chỉ để
dành cho những kẻ kính sợ “Thiên Chúa ở trong” có nghĩa một Đấng Thiên Chúa nội
tại. Tính chất nội tại của Thiên Chúa (Deus abconditus) là vô cùng quan hệ. Bao
lâu còn chưa nhận biết Đấng Thiên Chúa ở nơi mình thì bấy lâu việc cầu khẩn van
xin chỉ là vô vọng. Đức Kitô nói với người phụ nữ xứ Samari “Đàn bàn kia ơi,
hãy tin Ta giờ đến các ngươi thờ lạy Cha chẳng tại trên núi này cũng chẳng tại
Giêrusalem, các ngươi thờ lạy điều các ngươi không biết còn chúng ta thờ lạy điều
chúng ta biết. Vì sự cứu rỗi đến từ dân Do Thái. Nhưng giờ sắp đến và nay đã
đến rồi khi kẻ thờ lạy thật hãy lấy tâm linh và lẽ thật mà thờ lạy Cha vì Cha
hằng tìm kiếm người như vậy để thờ lạy Ngài” (Ga
4,21-23)
Sống tôn giáo là sống trong cuộc tìm kiếm nhẫn nại lâu dài.
Dẫu vậy vẫn có điểm an tâm đó là trong cuộc tìm này ta không hề đơn độc. Chúa
vẫn hằng tìm và kêu mời ta trở lại với Ngài “Hãy trở lại cùng Ta thì Ta sẽ trở
lại cùng ngươi” Ml 3,7. Trở lại với Đấng Chúa ngay ở nơi mình đó phải là toàn
bộ công cuộc giáo dục Kitô giáo cần phải nhắm tới.
I/ Giáo dục như một khai mở:
Trong ý nghĩa sâu xa nhất của giáo dục Kitô giáo đó phải là
việc khai mở tâm linh. Thật vậy chính Đức Kitô đã mở đầu công cuộc khai mở ấy
với việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Sau khi Chúa Giêsu rời Capharnaum dân
chúng chạy theo muốn giữ lại nhưng Ngài từ chối “Ta còn cần phải rao giảng Tin
Mừng Nước Trời cho các thành thị khác. Vì cốt tại việc đó mà Ta được sai đến”
Lc 4,42-44. Lý do khiến dân thành muốn giữ Chúa là để Ngài chữa trị bệnh tật
làm phép lạ trừ quỉ cho họ. Đức Kitô dứt khoát ra đi bởi sứ mệnh của Ngài ở cõi
thế này không phải để chữa bệnh hoặc lo cho đời sống phần xác nhưng là phần
hồn. Với phần xác thì cái cần cho nó là cơm áo gạo tiền, thuốc men, phương tiện
này nọ. Còn với phần hồn thì cái cần thiết không phải những thứ đó mà là trí
tuệ. Có chữa trị bệnh tật làm cho có cơm ăn áo mặc đầy đủ đến đâu thì rồi người
ta ai mà chẳng chết, rút cục cũng chẳng giải quyết được gì.
Trái lại một khi có được trí tuệ thì có tất cả cho đến cả cái chết cũng chẳng
còn nữa (Ga 11,26) Đức Kitô khai mở trí tuệ bằng cách rao giảng Tin Mừng Nước
Trời có nghĩa Ngài đem đến cho con người một cái tin đáng để mừng để vui = Nước
Trời hiện hữu ngay ở trong tâm hồn của mỗi người. Nói đến Nước Trời tức là nói
đến một cõi nước vô cùng cao sang vinh hiển. Nước ấy lại có ngay ở nơi mình,
thử hỏi còn có nỗi mừng vui nào có thể lớn hơn? Nước Trời vẫn luôn đầy đủ ở nơi
mỗi người, bậc Thánh không tăng kẻ phàm không giảm, thế nhưng bởi vô minh che
lấp phàm nhân chúng ta không một ai nhận biết. Đức Kitô rao giảng Nước Trời với
hai điều kiện. Một là ăn năn chừa cải tội lỗi và hai là phải có đức tin “Thời
đã mãn Nước Trời đã gần đến, các ngươi hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”
Mc 1,15.
Sám hối và tin vào Tin Mừng của đức Kitô đó là hai điều kiện
không thể thiếu để nhận biết Nước Trời ở nơi mình và đồng thời đây cũng phải là
toàn bộ công cuộc giáo dục Kitô giáo cần phải nhắm tới. Hiểu như vậy thì giáo
dục Kitô giáo không thể giống người đời. Người thầy thế gian dù dạy chữ nghĩa
hay nghề nghiệp thì mục đích cũng là để kiếm sống. Mặt khác họ học ở nơi người
nơi sách vở được những gì thì dạy lại như thế. Người thầy có thể học rộng hơn
trò nhưng nhiều khi ngược lại, chúng ta vẫn chẳng nghe người ta nói “Hậu sinh
khả úy” đó sao? Học chữ nghĩa hay nghề nọ nghề kia khoa học kĩ thuật này nọ mục
đích cao tột thì cũng chỉ để có sự hiểu biết thõa mãn cho tính hiếu tri. Còn
thấp cũng chỉ để cho có công ăn việc làm, sống một cuộc sống thoải mái sang
giàu. Trái lại trong giáo dục Kitô giáo người thầy cần phải có vai trò khai mở.
Để có thể làm người thấy như thế thì sự học và dạy của họ phải khác hẳn với thế
gian. Người thế gian học là học với nhau, còn người khai mở thì học với chính
Đức Kitô = Người Thầy duy nhất phải học. Chúa nói “Các ngươi đừng chịu ai gọi
mình bằng thầy (rabi) vì chỉ có một Đấng là Thầy các ngươi còn các người thảy
là anh em” Mt 23,8.
Trên phương diện tâm linh cần phải học với Đức Kitô bởi
chưng chỉ có Ngài mới thực là Thầy, là Đấng khai mở để cho ta nhận biết Đấng
Cha “Ta là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không
qua Thầy” Ga 14,6. Một khi Chúa đã nói chỉ có Ngài mới dẫn đưa ta đến
được với Đấng Cha thì tuyệt nhiên phải đúng như vậy. Không thể có triết gia,
thần học gia, đạo gia, thiền sư hay học thuyết nào có thể làm được điều ấy. Tuy
nhiên làm sao để có thể học được với Đức Kitô. Ngài ở đâu để cho ta theo mà
học? Vâng Ngài vẫn ở luôn với chúng ta “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế” Mt 28,20. Đức Kitô vẫn ở cùng chúng ta qua các Bí Tích và cách cụ thể
hữu hình nhất trong tư cách Người Thầy đó là các linh mục, các thầy giảng các
giáo lý viên. Khi những người này biết cách học hỏi ở nơi Đức Kitô thì họ sẽ là
những người được sai đi để làm việc khai mở. Còn đối với người học thì nếu biết
nhìn nhận những người ấy là hiện thân của Đức Kitô thì chính họ cũng sẽ được
khai mở.
II/ Giáo dục như một kiếm tìm:
Từ việc dạy giáo lý thiếu nhi cho tới các khoa thần học xưa
nay vẫn chỉ có tính cách một chiều. Sách giáo lý trước đây vẫn gọi là sách bổn
hỏi. Từ đầu chí cuối toàn là những câu hỏi và thưa đã được soạn sẵn và học viên
chỉ có việc học thuộc lòng. Cao hơn một bậc gọi là thần học về đại thể cũng
thế. Một khi nó đã được khẳng nhận là khoa học hiểu biết Thiên Chúa rồi thì
người học chỉ biết tiếp thu một cách thụ động chứ làm sao mà dám có ý kiến quan
điểm lập trường nào khác? Với cái học một chiều như thế đương nhiên là nó không
thể không khiến cho việc tìm kiếm chân lý bị ngưng trệ. Đang khi ấy điều cốt
lõi của đạo Chúa lại chính là ở nơi việc tìm kiếm. Chẳng những tìm mà phải hết
lòng tìm “Các ngươi sẽ tìm Ta và gặp được khi các ngươi tìm kiếm Ta hết lòng” Gr
29,13.
Với cái học mang tính thụ động như vậy thì người học khó có
thể đi đến chỗ thấu đáo. Mạnh Tử nói “Có biết tại sao thì mới biết được làm
cách nào” Thiên Chúa đòi hỏi ta phải hết lòng tìm kiếm, điều ấy cũng có nghĩa
con người được phép tra vấn về Ngài. Chính Chúa Giêsu chẳng những Ngài lưu tâm
tới thái độ của quần chúng mà còn thẳng thắn đặt câu hỏi với các môn để “Còn
các ngươi thì nói Ta là ai” (Mc 8,29). Đặt dấu hỏi về ai, về vấn đề nào không
phải là ta có sự nghi ngờ gì về đạo đức về khả năng của người ấy. Hoặc ngay
trong vấn đề hiện hữu của Thiên Chúa, quả thật Ngài là đấng nào, Ngài có thật
hiện hữu hay chăng. Nếu hiện hữu thì Ngài quan hệ ra sao với cuộc sống của tôi…
Những tra vấn này thực sự cần thiết bởi nó chứng tỏ sự thao thức trong ta. Trên
bước đường tâm linh thao thức là một điều hết sức cần thiết, nó cũng giống như
sự đam mê trong nghệ thuật. Dẫu vậy việc này cũng chẳng đi đến đâu, hoặc tệ
hơn, ngày càng chống trái chân lý. Đương thời Đức Kitô người Do Thái cũng rất
muốn tìm cho mình một con đường cứu độ. Có lần họ chất vấn “Thầy để chúng tôi
vơ vẫn cho đến chừng nào? Nếu thầy là đấng Kitô thì hãy nói tỏ tường cho chúng
tôi đi” Ga 10,27.
Con người có một điểm chung này là ai cũng mong mỏi kiếm tìm
hạnh phúc cho mình. Thế nhưng nếu hỏi hạnh phúc là gì thì chẳng có ai đồng ý
với ai về câu trả lời. Hạnh phúc dường như một cái chi đó hết sức tương đối,
khi còn nghèo túng thì nghĩ có được cơm no áo ấm là hạnh phúc. Nhưng khi đã có
đủ đầy cơm áo thì lại nghĩ có danh tiếng địa vị mới thật là hạnh phúc .v.v… Dẫu
vậy trong tận cùng thâm sâu con người vẫn ẩn chứa cái khát vọng khôn nguôi về
tuyệt đối. Tiêu biểu cho hạng người thao thức thánh Augustin có lần đã thốt lên
lời nguyện cầu “Lạy Chúa, Chúa đã dựng lên con vì Chúa nên tâm hồn con còn xao
xuyến mãi cho tới khi được nghĩ yên nơi Ngài”. Thao thức ước muốn cái tuyệt đối
là điều hết sức cần. Không có nguyện ước ấy thì không thể bước đi trên con
đường trọn lành. Tuy nhiên dù lòng muốn có thiết tha đến đâu nhưng nếu không
làm gì để thực hiện nó thì cũng chẳng đi đến đâu. Bởi đó lòng muốn cần phải đi
đôi với thực hành.
III/ Giáo dục như một chuyển hóa:
Với cái học một chiều như vừa nói tất nhiên không thể tránh
khỏi thái độ thụ động cho cả người dạy lẫn người học. Đối với người dạy thì yên
trí là mình đã làm xong bổn phận, còn người học thì cũng chỉ biết nghe vậy
thôi. Nghe hết bài này đến bài khác hoặc khen hoặc chê nhưng cũng chỉ như nước
đổ lá khoai chẳng gây ảnh hưởng gì đến cuộc sống. Học cần phải đi đôi với hành.
Cả hai cần phải bồi bổ cho nhau. Có học mà không có hành thì cũng như có đầu mà
không có chân, chẳng thể bước đi một bước. Trái lại chỉ có hành mà không có học
thì cũng như có chân mà không có đầu, có cố mà bước đi thì khó mà tránh khỏi sa
hầm sụp hố. Chúa nói “Hễ ai nghe lời Ta đây mà làm theo thì giống như người
khôn ngoan xây cất nhà mình trên nền đá. Dù có mưa tuôn nước đổ gió thổi bổ vào
nhà ấy song không thể sập vì đã lập trên nền đá. Còn hễ ai nghe lời Ta đây mà
không làm theo ví như kẻ ngu dại xây nhà mình trên cát có mưa tuôn gió thổi
nước đổ ập vào nhà ấy thì bị sập đổ nát rất lớn” MT-7-24-27.
Có hai nguyên nhân khiến cho việc thực hành lời Chúa có được
kết quả. Một là do nơi lòng tin, có tin vào Chúa mới thực hành lời Chúa, và hai
là chính do việc làm ấy mới nhận ra được rằng Lời Chúa là chân thật. Cả hai
việc này củng cố lẫn nhau càng ngày càng kiên cố, bền chặt giống như xây nhà
trên đá. Ví dụ như khi nghe Lời Chúa “Vì TA có sự nhu mì khiêm nhường nên hãy
mang lấy ách của TA. Học theo TA thì linh hồn các ngươi sẽ được nghỉ ngơi. Vì
ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” Mt 11,29-30. Nói đến “ách” đến
“gánh” thì ai mà chẳng ngán, ngại vậy mà Chúa lại phán ai muốn hết khổ, hết đau
thì hãy mang lấy ách của Ngài, gánh cái gánh của Ngài. Thật khó để mà tin nhưng
nếu cứ vững lòng tin và đem ra thưc hành trong đời sống thì sẽ thấy thật
là thần diệu. Nghe một câu chửi rủa, thóa mạ nếu không chịu nổi thì thể nào
cũng có phản ứng. Nhẹ thì chửi qua chửi lại. Nặng thì đánh đấm đâm chém , chẳng
mất mạng thì cũng vào tù. Ngược lại nếu nhịn nhục tin Lời Chúa, học theo
Chúa, cố mà nuốt giận mang lấy “ách” của Ngài thì mọi sự sẽ yên lành, linh hồn
được nghỉ ngơi hết bị phong ba bão táp.
Mang ách, mang gánh nặng nói thì nói vậy chứ thực hành trong
đời sống thật chẳng dễ chút nào. Về việc thực hành có hai quan điểm khác nhau. Một
là nói biết thì dễ, thực hành mới là khó (tri dị hành nan). Một đàng thì nói
ngược lại biết mới khó, làm thì dễ (tri nan hành dị). Thật ra thì biết và làm
không thể phân ra làm hai như vậy được. Vương Dương Minh (1472 – 1528) một danh
nho đời Minh đã xướng xuất ra thuyết “Tri hành hợp nhất” thế này “Người đời nay
học vấn nhân vì đã phân tri hành ra làm hai việc cho nên khi có một niệm phát
động tuy là bất thiện nhưng bởi chưa thi hành thì không tìm cách ngăn cấm. Ta
nói cái thuyết tri hành hợp nhất chính là để người ta hiểu được chỗ nhất niệm
phát sinh tức đã là hành rồi” (Trần Trọng Kim – Nho giáo – quyển hạ).
Thuyết “Tri hành hợp nhất” của Vương tiên sinh là do ảnh
hưởng của Thiền học nhưng khi áp dụng thực hành thì bất khả. Sự bất khả chính
là ở cái chủ trương muốn ngăn cấm niệm bất thiện (tư tưởng xấu ác) không cho nó
phát sanh. Không thể ngăn cấm niệm bất thiện mà nếu cứ cố ngăn thì cũng chỉ
giống như lấy đá đè cỏ. Cỏ có thể héo úa dường như chết nhưng cái gốc vẫn còn
nguyên. Bỏ đá ra cỏ còn mọc mạnh hơn trước. Vấn đề ở đây chính là cái gốc. Cũng
như cỏ cây phải có gốc, tư tưởng xấu ác (niệm bất thiện) cái gốc của nó là do
Tâm “Vì từ lòng mà ra những ác tưởng tàn sát, ngoại tình, gian dâm, trộm cắp
làm chứng gian và lộng ngôn” Mt 15,9. Gốc của mọi thứ ác tưởng đều do bởi TÂM
và Tâm này là tâm phân biệt ngã chấp. Bao lâu còn thấy có ta có người, thấy có
giàu nghèo sang hèn, xấu tốt v. v… thì ác tưởng không thể không sanh. Ác tưởng
sanh khởi là do còn ôm giữ có một cái tôi (ngã). Vậy chính cái “tôi” là gốc của
mọi thứ tư tưởng xấu xa ác độc. Trừ bỏ được cái tôi đi thì ác tưởng dù không cố
ngăn cấm thì nó cũng tự tiêu trầm lý do là vì gốc không còn. Toàn bộ đạo lý Đức
Ki tô cũng không ngoài việc phá chấp “Ai muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình, vác
thập giá mình mà theo TA. Vì hễ ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai
hễ vì cớ TA mà mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được” Mt 16,24-25. Cứu lại
mất, bỏ lại được. Đây là một nghịch lý của Ki tô giáo. Nghịch lý ấy chính là
cái cơ màu chuyển hóa từ ác sang thiện, từ mất sang được. Cơ chuyển hóa ấy chỉ
trong Đức Kitô mà ta mới có thể thực hiện.
IV. Giáo dục với người thầy là Đức Ki tô
Nếu giáo dục là chuyển hóa thì sự chuyển hóa trong Kitô giáo
chính là làm sao để cho mọi thành phần Dân Chúa đều được trở nên những Ki tô
hữu đích thực. Có quan điểm cho rằng tất cả những ai đã chịu phép rửa cũng đều
là Kitô hữu (Chre’tien) hiểu theo nghĩa là Có (Hữu) Đức Ki tô. Thật sự thì hoàn
toàn không phải như vậy, chẳng một ai mặc nhiên là Ki tô hữu. Nên nhớ danh xưng
Kitô hữu bắt đầu được khởi xướng ở thành Antiokia ám chỉ cho những người đi
theo (môn đồ) Chúa Giêsu (Cv 11,26). Mặt khác chính Chúa đã gọi các tông đồ là
bạn hữu “Ví thử các ngươi làm theo những điều TA đã truyền thì các ngươi là
bằng hữu của TA. TA chẳng còn gọi các ngươi là tôi tớ nữa, vì tôi tớ chẳng biết
điều chủ mình làm. Nhưng TA gọi các ngươi là bạn hữu vì TA từng tỏ cho các
ngươi biết mọi điều TA đã nghe, biết nơi Cha TA” Ga 15, 14-15.
Bạn hữu khác với tôi tớ ở chỗ tôi tớ không biết việc chủ làm
, còn bạn thì biết. Chủ ở đây tất nhiên là Đức Ki tô còn việc Ngài làm là bày
tỏ (mạc khải) về Đấng Cha. Chỉ khi đã được dự vào hàng ngũ bằng hữu thì mới
được Chúa mạc khải Đấng Cha, còn với thế gian thì không. Đối với những kẻ đã
hết lòng theo Chúa và được Chúa chọn thì đều đã nên bằng hữu và được mạc khải
về Đấng Cha. Thế nhưng được mạc khải không có nghĩa là đã nhận biết về Cha. Có
môn đồ thưa với Chúa “Kìa bây giờ Thầy nói tỏ tường không nói bằng dụ ngôn nữa.
Nay chúng tôi biết thầy biết mọi sự. Không cần ai hỏi thầy bởi đó chúng tôi tin
Thầy ra từ Đức Chúa Trời. Chúa Giêsu đáp “Bây giờ các ngươi tin chăng? Ngày giờ
sắp đến và thật đã đến rồi, cac ngươi sẽ tan tác ai đi đường nấy bỏ TA lại một
mình” (GA 16, 29-32)
Trong cuộc đàm đạo cuối cùng nơi bàn tiệc ly. Sau khi Chúa
đã cho biết những điều tâm huyết. Các Tông đồ dường như đã nhận thức được điều
gì đó trọng đại sắp diễn ra và tưởng rằng mình đã … biết, đã hiểu được Người
Thầy bấy lâu gần gũi. Thế nhưng cho đến những giây phút đó và thậm chí ngay cả
đến khi Chúa đã sống lại, các vị vẫn còn lầm tưởng khi đặt câu hỏi “Thưa Chúa,
có phải đây là lúc Ngài khôi phục lại nước Itsraen chăng?” Cv 1,6. Để nhận biết
Đấng Giêsu là Đấng Cứu Chuộc, là Con Thiên Chúa, là Người Thầy không phải là
cái việc đương nhiên nhưng cần phải trải qua một quá trình chuyển hóa.
Quá
trình ấy diễn ra ở nơi mỗi người mỗi khác. Phêrô thì khác với Gioan, Thomas lại
khác với Philliphê v. v… sự chuyển hóa ấy có khi diễn ra một cách quyết liệt
chẳng hạn Phaolô từ người bắt bớ giết hại Đạo lại đã trở thành một chứng nhân
dám chết cho chân lý. Lý do đưa đến chuyển hoá của Phaolô cũng là của bất cứ
người nào. Trước đó có thể đánh giá, tưởng rằng Ngài như thể là một nhà yêu
nước, một lãnh tụ giải phóng quân hoặc kẻ nổi loạn v. v.. . nhưng sau đó thì
cái nhìn đã hoàn toàn khác. Phao lô khi trở lại đã đoan quyết “Bởi đó cho nên
từ nay chúng tôi không còn nhận biết aitheo xác thịt nữa. Dầu chúng tôi từng
nhận biết Đức Ki tô theo xác thịt song hiện nay chẳng còn nhận biết Ngài cách
ấy nữa. Vậy nếu ai ở trong Đức Ki tô thì nấy là người đã được dựng nên mới. Những
sự cũ đã qua đi. Này mọi sự đều trở nên mới” (2C 5, 16-17)
Qua đây ta thấy có điều hết sức quan trọng đó là khi được ơn
trở lại Phao lô đã không nhận biết ai kể cả Đức Kitô theo xác thịt. Nhận biết
theo xác thịt có nghĩa chỉ thấy con người như là thân xác. Cái thấy này là thấy
trong mê. Thật sự thì con người không phải là thân xác nhưng đích thực nó là “hình
ảnh” của Thiên Chúa và là anh em cùng Cha với Chúa Giêsu không một mảy may khác
biệt. Đức Ki tô Phục Sinh nói với Maria Madalena “Ta lên cùng Cha TA cũng là
CHA các ngươi, cùng Đức Chúa Trời TA cũng là ĐCT các ngươi” Ga
20,17
Phao lô trở lại cũng có nghĩa Ngài đã trở nên một Ki tô hữu
đích thực. Còn chúng ta một khi đã “ở trong” Đức Ki tô (in Christo Jesu) thì
tất cũng đã được dựng nên mới. Công việc “dựng nên mới” đây chính là nhiệm vụ
của Đức Maria.
V. Giáo dục với vai trò của Đức Maria
Từ thuở đời đời con người đã được dựng nên giống “Hình
ảnh Thiên Chúa” (STK 1-26). Thế nhưng do bởi nguyên tổ cố tình ăn trái cấm nên
đã bị xua đuổi khỏi Địa Đàng “Vậy Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn rồi đặt tại
phía đông vườn E đen các thần Cherubin với lưỡi gươm chói lòa để giữ con đường
đi đến Cây sự sống” (Kn 3,24). Với sự thể bị ngăn cấm bởi các Thần
Cherubin cầm gươm trấn giữ như thế lẽ ra con người sẽ không bao giờ còn được
trở lại vườn xưa Địa Đàng. Thế nhưng nếu quả như vậy thì làm gì còn có trình
thuật sáng tạo tức Thánh kinh lưu truyền cho tới ngày nay? Sau khi nguyên tổ
phạm tội Giavê Thiên Chúa có lời trách phạt con rắn “TA sẽ làm cho mày cùng
NGƯỜI NỮ. Dòng dõi mày cùng dòng dõi NGƯỜI NỮ nghịch thù nhau. NGƯỜI sẽ giày
đạp đầu mày, còn mày thì sẽ rình cắn gót chân NGƯỜI” (Kn 3,15).
Qua đây ta thấy Thiên Chúa tiên báo về một cuộc chiến ác
liệt dai dẳng giữa NGƯỜI NỮ và con Rắn. NGƯỜI NỮ có lẽ ai cũng hiểu là nói về
Đức Maria nhưng còn con rắn? Chắc chắn đó không phải … một con vật bởi như thế
thực phi lý. Tuy nhiên nếu chẳng phải con vật thì thực chất nó ám chỉ cho cái
gì? Để có thể giải mã cho câu chuyện đầy tính chất bí hiểm gây tranh cãi trong
bấy lâu nay thì không thể không xoay về nguồn TÂM. Vườn Địa Đàng đó chính là
TÂM (Địa) ở nơi vườn ấy “Giavê ĐCT khiến đất mọc lên các thự cây đẹp mắt
và trái thì ăn ngon. Giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện điều
ác” (Kn 2,9). Những thứ cây cỏ trong vườn tức các chủng tánh (hạt giống) thiện,
ác, vô ký và đặc biệt giữa vườn có hai thứ cây. Một cây sự sống hay còn gọi là
cây trường sinh ám chỉ cho sự sống đời đời cũng tức là tâm vô phân biệt. Còn
cây kia là cây kia là cây biết phân biệt thiện ác tức tâm phân biệt, tức lý
trí. Giavê Thiên Chúa cấm nguyên tổ không được … ăn cây phân biệt “Các ngươi
được ăn hoa quả các thứ cây trong vườn nhưng về cây biết thiện, biết ác thì chớ
hề ăn đến vì một mai ngươi ăn chắc chắn phải chết” Kn 2,16-17.
Lý trí là cái khả năng duy chỉ con người mới có. Tuy nhiên
khả năng này như một con dao hai lưỡi, lợi cũng nhiều mà hại cũng lắm. Suy nghĩ
phán đoán để làm việc phải, việc tốt thì nó đem lại rất nhiều lợi ích. Trái lại
cũng lí trí ấy được dùng để tính toán mưu mô làm việc bạc ác, bất nhân thì tai
hại vô kể. Mặc dầu có cả lợi và hại như thế nhưng xét trên bình diện đạo đức
tâm linh thì lý trí chỉ có thể là tội. Tại sao thế? Bởi vì thuộc tính của lý
trí là phân biệt mà phân biệt tức có nghĩa là còn thấy có ta có người. Nói một
cách khác bởi vì còn thấy có ta có người, ta khác với người nên mới phân biệt.
Bao lâu còn lấy ta làm một thứ trung tâm điểm (quy kỷ) cho mọi nghĩ suy lời nói
hành động thì bấy lâu vẫn còn chìm đắm trong mê. Đạo Chúa là đạo giải thoát và
sự giải thoát ấy chính là ở chỗ không còn thấy có mình. Còn thấy có mình là còn
mê, bởi đó Chúa dạy những ai muốn theo Ngài thì phải bỏ mình là vậy.
Bỏ mình không có nghĩa là bỏ thân xác hay bỏ linh hồn nhưng
là không chấp xác thân, không chấp những suy tư nghĩ tưởng này là mình. Con
người được dựng nên giống “Hình ảnh Thiên Chúa” là con Thiên Chúa y như Chúa
Giêsu không khác một mảy. Một khi là anh em với Chúa Giêsu thì hết thảy chúng
ta những Kitô hữu đã chẳng phải là con của đức Maria hay sao? Lần kia Đức Mẹ đã
nói với thánh Gietruđê “Giêsu con rất dịu dàng của Mẹ không là con độc nhất
(unigenitus) nhưng thật là con đầu lòng (Primo genitus) vì Mẹ đã thụ thai đầu
hết trong dạ. Nhưng sau Ngài đúng hơn bởi Ngài, Mẹ đã thụ thai chúng con tất cả
khi nhận lấy chúng con làm con cái trong dạ đầy tình hiền mẫu Mẹ để chúng con
nên anh em Ngài, đồng thời là con Mẹ” (Bernadot – 0P Mẹ
trong đời tôi).
Làm con của Đức Maria ngay từ khi chúng ta lãnh nhận bí tích
rửa tội và tội ở đây không phải là tội chi khác mà đó chính là tội nguyên tổ.
Tuy nhiên phép rửa không phải là một thứ phù phép khiến kẻ lãnh nhận nó đương
nhiên khỏi được tội. Nhưng ta nên hiểu đó là một điều kiện tối cần để cho Đức
Maria trong tư cách NGƯỜI NỮ có thể thực hiện và đem lại thắng lợi trong cuộc
giao chiến với Satan “Con rắn xưa gọi là ma quỷ và Satan đứa lừa dối cả và
thiên hạ” (Kh 12,9 )
NGƯỜI NỮ đã dùng thứ vũ khí nào để có thể chiến thắng Satan
đứa lừa dối cả và thiên hạ? Xin thưa đó là sự khiêm nhường sâu thẳm tượng trưng
bằng gót chân người phụ nữ. Gót chân thì luôn ở vị trí thấp nhất trong thân
thể. Còn người nữ biểu thị cho sự yếu mềm. Sự khiêm hạ sẽ thắng được kiêu căng,
đây là lẽ tất yếu của nguyên lý “Nhu thắng cang nhược thắng cường”. Điều này
tuy nói ra ai cũng biết nhưng lại chẳng có ai làm được “Nhu thắng cang nhược
thắng cường. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành” (Lão Tử ĐĐK chương 78).
Cái điều chẳng một ai làm được nhưng Ki tô giáo thì lại có
thể với điều kiện là toàn bộ công cuộc giáo dục ấy cần phải đặt trên nền tảng
Đức Maria. Nói một cách khác tính chất giáo dục tâm linh không thể cậy dựa vào
các ông thầy bà thầy bên ngoài nhưng cần phải có NGƯỜI THẦY bên trong gọi là vô
sư trí. NGƯỜI THẦY bên trong đó không phải ai khác ngoài Đức Ki tô “Các ngươi
gọi TA bằng Thầy, bằng Chúa, các ngươi nói đúng đó vì TA thật là như vậy” (Ga
13-13). Quả NGƯỜI THẦY tối tôn là Đức Ki tô nhưng chúng ta đâu có nhận biết
Ngài? Không nhận biết được Thầy thử hỏi làm sao mà theo được Thầy?
Ngay từ khi lãnh nhận Bí Tích rửa tội tín hữu chúng ta không
ai là không có Chúa Giêsu nơi mình. Thế nhưng Đấng Chúa ấy chỉ như một mầm sống
mong manh yếu ớt, Đấng ấy cần phải được cưu mang bảo dưỡng mới có thể lớn lên
được. Vả lại cái mầm mống Chúa ấy sở dĩ được sinh ra ở trong ta cũng là do Đức
Maria. Không có Mẹ thì làm sao ta có thể có Chúa là con của Mẹ? Mặt khác Chúa
có ở trong ta không như một cái hột lúa lép nhưng đó là sức sống Thần linh. Sức
sống ấy nhất thiết cần phải có được sự dưỡng nuôi chăm sóc và yêu mến của Mẹ.
Người bảo vệ ta, yên ủi ta, giáo dục ta trong từng giây từng phút cuộc đời. Mặc
dầu chúng ta có nhận thức được điều ấy hay không. Ôi! Việc nhận biết để rồi hết
lòng đặt niềm cậy trông phó thác vào Đức Maria NGƯỜI MẸ của nhân loại và của
từng mỗi Ki tô hữu chúng ta cần thiết biết bao nhất là trong những ngày này là
NGÀY CỦA CHÚA ngày “Con Người đến thật gần như đang ở trước ngưỡng cửa” (Mt
24,33 )
Phùng Văn Hóa