«Ngày nay, nhân quyền được tuyên dương như một
‘đạo lý mới’ của thế giới».[1] Nhận định đó của Walter Kasper, nay là Hồng Y chủ tịch Hội
Đồng Giáo Hoàng Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Hữu cho thấy ngày nay nhân quyền được xem
là chuẩn mực hướng dẫn nếp sống cá nhân và các cộng đồng trong đại gia
đình nhân loại. Trong mọi ngành sinh hoạt từ văn hóa, chính trị, tôn giáo, báo
chí truyền thông kể cả thể thao, kinh tế, cuộc sống gia đình v.v. nhân
quyền được nêu lên như một mục tiêu sinh hoạt, một giá trị tối thượng để đánh
giá tốt xấu, để tuyên dương hay trừng phạt, ngay cả bằng biện pháp chiến tranh.
Trong một mức độ nào đó, mối liên lạc văn hóa giữa nền văn
minh Tây Phương tân tiến và các tôn giáo, đặc biệt là giáo hội công giáo, trong
lối cảm nhận về nhân quyền có vẻ như không còn khắng khít như thời kỳ
tiếp liền theo Công Đồng Vaticanô II; đây đó dư luận lên án thái độ đạo đức của
giáo quyền Roma là thủ cựu, như ngầm hiểu là chống lại nhân quyền (đặc biệt là
các vấn đề liên quan đến tính dục, gia đình); hơn thế nữa nhiều quốc gia tuy có
số lượng người công giáo chiếm đa số tuyệt đối đã ban hành nhiều đạo luật
( phá thai, hôn nhân đồng tính, can thiệp giúp bệnh nhân tự tử…) đi ngược lại
với giáo huấn đạo đức mà giáo hội công giáo chủ trương; kết quả là phía bên nầy
bên kia, đạo và đời đều có những nhóm ngầm cho rằng nhà cầm quyền hoặc giáo hội
công giáo là tác nhân vi phạm Nhân quyền.
Như thế đằng sau chữ nhân quyền tưởng chừng như ai cũng am
tường đầy đủ nội dung, thật sự còn có nhiều nội dung văn hóa căn cơ hơn, có
nhiều điểm tương đồng nhưng cũng không thiếu những nét dị biệt. Một phần chính
các mối căng thẳng đôi bên không phải phát xuất từ việc thiếu thiện chí thực
thi nhân quyền, nhưng phát xuất từ phương cách định giá nhân phẩm
và các chiều kích trọn vẹn của nhân tính.
1/ Mạc khải Kitô giáo và quan điểm của văn hóa tân kỳ về
Nhân quyền
Tác giả Walter Kasper trong tài liệu Nền tảng thần học
của nhân quyền đã nhận định về việc xây dựng nền tảng cho Bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền một cách tương đối bi quan như thế nầy:
‘Nhưng vấn đề đặt ra là xem cái gì tạo nên sự vững bền
cho nền tảng chung đó. Người ta kể rằng một thành viên của một trong ủy ban
soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền tại Liên Hiệp quốc có lần như từng phát
biểu rằng: ‘Chúng ta đồng ý về các quyền ấy, với điều kiện là đừng ai hỏi tại
sao!’. Sự hững hờ về việc đặt nền tảng của Nhân quyền khai lộ cho thấy nhược
điểm nào đó của những lối biện minh cho sự chính đáng của các quyền ấy[2]..’
Nói cách khác, nền tảng xây dựng nội dung ý nghĩa nhân quyền
trong Bản Tuyên Ngôn nầy như dựa trên một cảm nhận chung chung của con người
thời đại, cảnh giác những vi phạm đến cá nhân mà lương tri không cho phép (con
người nhìn nhận có tiếng nói tự nhiên nơi tâm hồn mọi người : ’không được
phép làm điều nầy hay điều kia …’). Người ta đã dừng lại đoạn đường
ấy có lẽ vì muốn có sự đồng thuận tối thiểu về một số biện pháp cấp bách tiếp
sau những tang thương kinh hoàng của đệ nhị thế chiến, hoặc để giảm bớt những
chống đối của các quốc gia không thuộc vào truyền thống văn hóa mà GS Joseph
Joblin, S.J. gọi là truyền thống văn hóa Địa Trung Hải[3]. Và
cũng trong bối cảnh của thời sự có tính cách ứng dụng thực tiễn và thúc đẩy bởi
tình thế cấp bách mà các tôn giáo, đặc biệt là giáo quyền công giáo, đã
công khai nhìn nhận giá trị tích cực của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của
Liên Hiệp Quốc, mặc dầu có những ngại ngùng của nhiều tín đồ trong giáo hội nầy[4].
Người ta ngại ngùng vì không những quá khứ có những tranh chấp có tính cách xã
hội chính trị giữa đạo đời, mà ngay ở mức độ nền tảng xây dựng quan điểm về
nhân tính và phẩm giá con người, đôi đường có những cách biệt sâu xa.
Mặc khải tích cực Kitô giáo khai mở cho thấy con người được
định nghĩa, được đánh giá từ Thiên Chúa: là hình ảnh Thiên Chúa, là con Thiên
Chúa, là bạn hữu của Con Một Thiên Chúa, là chi thể mà Con Thiên Chúa là đầu,
là giá trị tột bậc đến nỗi Thiên Chúa đã hy sinh Con Một mình để cứu chuộc, đã
được Thiên Chúa yêu thương đến độ hứa ban vinh dự mãi mãi sẽ ở cạnh Ngài… Nhân
tính và phẩm giá đó đã chứng thực trong lịch sử và hoàn thành nơi Đức Kitô: Đức
Kitô yêu Thiên Chúa trọn đầy nơi con người và yêu con người trọn trọn đầy trong
Thiên Chúa. Nhân tính và nhân phẩm đó làm cho trí khôn tự nhiên của con người
hụt chân. Không một sự vật nào, một ý niệm nào từ sức con người nghĩ ra được
tính ‘linh ư vạn vật kỳ diệu’ đó. Hai chiều kích tương quan chân thật với Thiên
Chúa và tương quan huynh đệ nhân loại không thể tách rời nhau bất cứ vì một lý
do gì hay một giây phút nào. Toàn bộ Kinh Thánh bất cứ trang nào, dòng nào cũng
qui chiếu vào Đức Kitô, Đấng hoàn thành hai chiều kích ấy.
Người Kitô hữu ngày nay khi đọc lại Phúc Âm rồi đọc toàn Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, hoặc đối chiếu với châm ngôn Tự do – Bình đẳng –
Huynh đệ của Cách Mạng 1789 hẳn sẽ ngạc nhiên vì không thấy có những nội dung
nào giữa đôi bên quá mâu thuẫn, tại sao lại có xung khắc lên án nhau,
hoặc phải ngại ngùng dè dặt. Kỳ thực đằng sau những dòng chữ nầy có những
nội dung hướng dẫn khác biệt đưa đến những lối hiểu, những phương cách giải
thích và áp dụng khác nhau; chưa kể đến những tranh chấp quyền lực chính trị xã
hội tạo ra những tiền kiến và nghi ngại đến độ lên án và khai trừ nhau.
Thành ngữ nhân quyền với âm hưởng tân thời xuất hiện (lần
đầu được tìm thấy trong các tài liệu là vào năm 1537)[5] rất
muộn trong bối cảnh văn hóa Thời Phục Hưng Âu Châu. Walter Kasper cho rằng sự
xuất hiện nội dung mới về nhân quyền là hiện tượng khủng hoảng[6] Ï;
khủng hoảng toàn bộ cơ cấu xã hội sau trật tự Thời Trung Cổ Âu Châu sụp đổ.
Trước đó Kitô giáo quán xuyến quyền đời, quyền đạo như một bà mẹ nuôi con dại.
Tương quan con người với Thiên Chúa và tương quan huynh đệ nhân loại được hiểu
là đạo và đời quyện lẫn vào nhau, nếu không nói là quyền bính tôn giáo
được đồng hóa với tầng lớp giáo sĩ luôn được ưu tiên vật chất lẫn tinh thần.
Tuy không hoàn hảo, nhưng cơ cấu và trật tự xã hội thời Trung Cổ ốn định trong
khung cảnh lịch sử Âu Châu thời ấy. Qua đến thời Phục Hưng, tất cả dường như bể
bung chờ đợi một cuộc lột xác: của cải vật chất nay thay chủ, giai cấp giáo sĩ
và quí phái, điền chủ nhường địa vị ưu thắng cho giới thương gia và kinh doanh;
kiến thức văn hóa không còn giới hạn trong các tu viện, nhưng phổ biến rộng rãi
trong quần chúng nhờ phương tiện đi lại và máy in. Các nhà trí thức hướng về
việc nghiên cứu văn hóa cổ Hy lạp và khám phá lại kiến thức nhân bản thời các
nhà ‘khôn ngoan’(người ta còn dịch là ngụy biện = sophistes) để tin
vào khả năng lý trí tự nhiên nơi mỗi cá nhân và làm quen với một lối điều hành
nếp sống cộng đồng trong tinh thần dân chủ của Nhã Điển. Nói tóm, xã hội thời
Phục Hưng chuẩn bị đẩy lui các chuẩn mực và quyền hành ở bên ngoài để chỉ còn
nhìn thấy uy thế tối thượng của lý trí cá nhân như một chuẩn mực duy nhất. Về
mặt văn hóa, nếu Thiên Chúa còn được nhắc đến thì hoặc được đồng hóa với lý trí
phổ quát mà con người xác quyết là ở trong quyền lực sử dụng của mình rồi, hoặc
chỉ là một ý tưởng điều hành mà lý trí nêu lên như một giả thiết để xây
dựng hệ thống kiến thức của mình mà thôi. Với nền hữu thể học truyền thống Hy
lạp định nghĩa toàn hảo, linh thiêng là một cái gì độc lập, tự đủ cho mình,
và với khám phá lý trí quyền năng vô tận mà mỗi người sẵn có trong mình,
từ nay những ý niệm tự do, tự chủ trong bối cảnh văn hóa nầy (thường được gọi
là thời tân kỳ) trở thành những giá trị tối thượng, chuẩn mực cho đạo đức và
phẩm giá con người.
Trong bối cảnh lịch sử xã hội Âu Châu thời bấy
giờ, độc lập tự chủ trước mắt là giải thoát khỏi các cơ cấu ràng
buộc bên ngoài tức là tổ chức Kitô giáo và các luật lệ tôn giáo liên hệ. Vì
trước đó giáo hội đã tự đồng hóa là hàng giáo phẩm, giáo sĩ, và đồng thời xem
mình là hiện thân của Thiên Chúa nơi trần thế, nên nay việc loại bỏ ảnh hưởng
của giáo hội cũng được cả đôi bên, đạo cũng như đời, xem là loại bỏ yếu tố thần
thánh, thiêng liêng nơi sinh hoạt con người và xã hội, là tách rời và sau đó là
quên hẳn chiều kích tương quan giữa con người và xã hội với Thiên Chúa. Cuộc
tranh chấp căng thẳng từ văn hóa đến quyền uy xã hội nầy trở thành nghiêm trọng
dần và nổ bung qua cuộc cách mạng Pháp năm 1789 và với ảnh hưởng phổ biến của
trào lưu Triết học Ánh sáng. Nội dung nhân quyền trong bối cảnh lịch sử đặc
biệt của văn hóa và xã hội Âu Châu như thế đã ảnh hưởng rất nhiều trong diễn
tiến lịch sử qua hơn hai thế kỷ cho đến ngày nay, không những tại Âu Châu mà
lan rộng trên thế giới, đi kèm với cái nhìn lạc quan hầu như ngây ngô về
tiến bộ khoa học kỹ thuật và trào lưu dân chủ như chìa khóa giải quyết mọi vấn
đề nhân sinh.
2/ Những mối căng thẳng giữa giáo hội công giáo và xã hội
dân sự về nhân quyền
Hệ quả của Cách Mạng Pháp đi kèm với Bản tuyên ngôn 1789 là
sự căng thẳng liên tục đạo đời về quan điểm nhân quyền. Đôi bên, giáo hội công
giáo và các trào lưu tân kỳ chi phối xã hội, không những cố thủ lập trường của
mình mà có khuynh hướng đi quá xa. Phía Cách Mạng xem kitô hữu và giáo hội công
giáo đương thời là thành phần ngoan cố của chế độ cũ, bảo thủ và phản động, và
lập tức vi phạm ngay điều mà Bản Tuyên Ngôn đề xướng: quá nhiều chém giết
huynh đệ tương tàn, loại trừ tự do tư tưởng bằng bạo lực hoặc bằng các phương
thức gián tiếp tinh vi, hạn chế tự do hành đạo…; phía giáo hội công giáo lúc
bấy giờ chưa có thể quan niệm được sự phân cách giữa trách nhiệm dân sự và
những giới hạn của phận vụ tôn giáo (chưa thể quan niệm được sứ mệnh đặc loại
của mình và quyền uy xã hội dân sự) nên đã đi vào đường lối phản đối tiêu cực
và thu mình vào thái độ thụ động, lên án :
‘Các biện pháp bài tôn giáo của Cách Mạng diễn tiến tuần tự,
sự kiện có thể chứng minh được qua lập trường e dè của Giáo hoàng Piô VI; Ngài
chần chừ một thời gian dài trước khi lên án Bản Tuyên Ngôn năm 1789 trong Cơ
mật hội ngày 19.3.1790; và sau đó là ”Qui chế dân sự của giới giáo sĩ ‘.
Rõ rệt hơn nữa trong Tông thư ngày 10.3.1791 Quod Aliquantum: Ngài ‘ không nhằm
cổ súy việc tái lập lại chế độ cũ của nước Pháp’.
Tuy vậy, chính trong bức thư đó lại có những thành ngữ rất
mạnh như « các quyền kỳ quặc » hoặc « quyền ảo
tưởng » khi nói về các loại tự do mới. Những loại tự do như thế sẽ cho
chúng ta cứ điểm để thấy nội dung của sự tranh chấp giữa giáo hội và xã hội tân
thời.[7]
Đến đầu thế kỷ nầy, Dom Besse tóm kết cho ta thấy tại sao về
giáo hội công giáo vẩn e dè đứng ngoài, nếu không nói là ngờ vực chống đố những
trào lưu nhân quyền dân sự.
‘Chúng là lời tuyên xưng, là điều răn của chủ nghĩa duy
nhiên và chủ nghĩa tự do. Ta tìm thấy trong ấy tất cả những đường nét của các
hệ thống nầy: quyền Thiên Chúa, im lặng không nói đến quyền của Chúa, cứu cánh
con người quy hết vào hạnh phúc trần thế, độc lập không lệ thuộc gì vào mọi
quyền bính, bình đẳng giữa mọi người, mọi ý kiến có giá trị như nhau (…).
Phương cách duy nhất để có cơ may thành công chống lại chủ trương cứu độ con
người như thế, là phải luôn mãi trở về với ý niệm Thiên Chúa, vai trò của Ngài
nơi trần thế và các quyền của Ngài’.[8]
Nhưng bên cạnh những cách biệt đạo đời đó, giáo hội công
giáo tìm ra được nhiều phương cách thực thi đức bác ái của mình. Giáo hội công
giáo không nhân danh nhân quyền với âm hưởng là thoát ly khỏi tôn giáo, nhưng
đã can đảm dấn thân phục vụ con người và ưu tiên đồng hành với người yếu thế,
thăng tiến cuộc sống của họ trong nhiều lãnh vực: các dòng tu chuyên về giáo
dục con em nghèo, săn sóc bệnh nhân, các hội từ thiện, các văn kiện giáo hội
bênh vực giới thợ thuyền và tôn vinh giá trị lao động (TĐ Rerum Novarum của GH
Lêô XIII)… Và hơn nữa nhiều Kitô hữu đã dấn thân ngay vào các tổ chức nhân
quyền, hợp tác với những người không cùng quan điểm tôn giáo vượt lên trên
những hậu ý lắm lúc thiếu căn cơ.
Về phía xã hội dân sự, tuy còn ái ngại về yếu tố tôn giáo
trong cuộc sống dân sự, người ta thấy được sự hiện diện tôn giáo, đặc biệt là
công giáo không còn là mối đe dọa quyền lực, cũng như thực tế xã hội cho thấy
kitô hữu thật sư là tác nhân thực thi nhân quyền cụ thể và hữu hiệu, những nội
dung ‘cách mạng theo nghĩa là bài xích tôn giáo’ phôi pha dần để trở thành
những nội dung tích cực và ít nặng về ý hệ tự do cá nhân triệt để.
3/ Gặp gỡ đạo-đời về nhân quyền
Ngày nay không ai có thể phủ nhận giáo hội công giáo trong
mọi mặt là chiến sĩ ở tuyến đầu đấu tranh cho nhân quyền. Biến cố làm rung
chuyển giáo hội công giáo, – từ thái độ chống đối đến lập trường cổ võ tới mức
độ đã đưa nội dung nhân quyền vào giáo huấn như một yêu sách thực thi Tin Mừng,
- biến cố đó là Công Đồng Vaticanô II. Khai mở cho tinh thần đối thoại
đạo-đời, GH Gioan XXIII trong thông điệp Pacem in Terris đã nêu lên
những chỉ dẫn tích cực:
‘Cũng thế, ta không thể đồng hóa những lý thuyết triết học
sai trái về vũ trụ tự nhiên, về nguồn gốc và cứu cánh của thế giới và của con
người, với những phong trào thực hiện trong lịch sử được thành lập nhằm mục
tiêu kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc chính trị, mặc dù các phong trào nầy đã phát
sinh, và còn chịu ảnh hưởng bởi các lý thuyết ấy. Một lý thuyết, một khi đã
định hình và được viết ra, thì không thay đổi nữa, trong lúc các phong trào, vì
có đối tượng là những hoàn cảnh cụ thể và đổi thay của cuộc sống, nên không thể
nào không chịu ảnh hưởng một cách rộng rãi về biến chuyển nầy . Ngoài ra, trong
trường hợp các phong trào nầy đồng ý với các nguyên lý tốt lành của lý trí và
đáp ứng được những khát vọng chính đáng của con người, ai có thể từ chối mà
không nhìn nhận nơi các phong trào ấy có những yếu tố tích cực và đáng hoan
nghênh’[9].
Và các nội dung của nhân quyền được đưa vào giáo huấn, vào
bản văn minh định lề lối sinh hoạt của giáo hội giữa trần thế; qua Hiến
Chế Gaudium et Spes chúng ta có thể nêu lên vài nội dung chính yếu
như sau:
‘ (…) Con người ngày càng ý thức hơn phẩm giá cao cả của
mình vượt lên trên mọi vật; các quyền lợi và bổn phận của nó có tính cách phổ
quát và không thể vi phạm. Vì thế cần phải đem lại cho con người có được
tất cả những gì thiết yếu để sống một cuộc sống thật sự xứng đáng là người,
như: của ăn, quần áo, nhà ở, quyền tự do chọn lựa bậc sống và quyền lập gia
đình, quyền được giáo dục, quyền làm việc, được bảo vệ thanh danh, được kính
trọng, được thông tin đúng đắn, quyền hành động theo luật ngay chính của lương
tâm, quyền bảo vệ đời sống riêng tư và có được tự do chính đáng, kể cả trong
lãnh vực tôn giáo (26, 2).’
‘Mọi hình thức kỳ thị liên quan đến các quyền căn bản của
con người, dù dựa trên phái tính, chủng tộc, màu da, điều kiện xã hội, ngôn ngữ
hoặc tôn giáo, đều phải vượt qua và bãi bỏ, như là trái với ý định của Thiên
Chúa (29, 2). Vì thế Giáo hội, dựa vào Phúc âm đã ủy thác cho mình, tuyên dương
các quyền của con người, nhìn nhận và đánh giá cao năng động của thời đại
hiện đang cổ võ những quyền ấy khắp nơi…Chúng ta dễ gặp cám dỗ cho rằng các
quyền con người chúng ta có thể duy trì trọn vẹn một khi tước bỏ hết lề luật
của Chúa’ (GS 41, 3).
Tiếp theo Công Đồng Vaticanô II, các vị giáo hoàng, các hội
đồng giám mục liên tục lên tiếng kêu gọi không những tín đồ của mình mà cổ võ
mọi người, mọi giới thực thi nhân quyền. Giáo triều Roma đã không những phản
ứng trước những vi phạm nhân quyền gia trọng trước mắt, mà còn nêu lên từng đề
mục với những đề nghị cụ thể nhằm giúp thăng tiến và phát triển con người trong
công lý, đặc biệt cho các khối dân cư nghèo khổ: chẳng hạn về nhà cửa cho người
nghèo, đất đai cho người canh tác, giải trừ nợ nần cho các nước chậm phát
triển… Chỉ trong một vài thập niên sinh hoạt tích cực cho nhân quyền, đặc biệt
là về phát triển và hòa bình, giáo triều Vatican không những được xem là tổ
chức có uy thế để can thiệp trong vấn đề nhân quyền, mà được xã hội xem việc
can thiệp cho nhân quyền là phận vụ riêng của giáo hội công giáo phải chu toàn
trong sinh hoạt cộng đồng thế giới.
Về phía tổ chức, một Ủy Ban Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình
và sau đã nâng cấp thành một Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình, được
thành lập để đặc trách việc cổ võ và thực thi nhân quyền, phổ biến giáo huấn xã
hội công giáo. Ở cấp bậc quốc gia và đôi khi ở cấp giáo phận, các ủy ban liên
hệ cũng được khai sinh và sinh hoạt đồng hành với các tổ chức nhân quyền địa
phương.
Ngoài việc thừa nhận thiện ích của nhân quyền, soi sáng ý
nghĩa sâu xa và toàn bích của ý niệm nầy trong khuôn khổ mạc khải của Tin Mừng,
không những giáo hội công giáo đã dấn thân thực thi tích cực mà còn tạo nên một
phong thái riêng trong việc thực thi nhân quyền:
a/ Tin thần tự kiểm, thống hối và canh tân
“Ít nhất cũng phải nhớ rằng trước đây nhiều thời kỳ Giáo hội
không tôn trọng điều mà ngày nay chúng ta gọi là nhân quyền; chỉ cần nghĩ đến
những điều tai ác kéo dài nhân danh Kitô giáo qua nhiều thế kỷ do một số các
cuộc Thánh chiến, do Pháp đình thời Trung cổ, chiến tranh tôn giáo, chưa kể đến
những yếu tố Kitô giáo dễ tạo ra những xung đột kỳ thị chủng tộc hoặc bài Do
Thái. Nhiều người bên ngoài tôn giáo thực sự đã đi trước Kitô hữu trong nỗ lực
bảo vệ nhân quyền (như Liên minh bảo vệ nhân quyền, một thời gian lâu được xem
là đồng nghĩa với chủ trương chống giáo quyền), nên Kitô hữu cần khiêm tốn đóng
góp vào lãnh vực nầy, tránh huênh hoang. Nhất là, sự tín nhiệm cần phục hồi
trong việc bảo vệ nhân quyền một cách thành tâm đòi hỏi chúng ta phải đại
độ dấn thân không có một hậu ý nào”[10].
Không phải vì đã trực tiếp tham gia vào tội ác, không phải
vì đã thinh lặng hay giữ thái độ tiêu cực trước vi phạm nhân quyền chống lại
bất cứ ai (vốn là đã tiếp tay vi phạm) hoặc vì đã không hết mình tạo điều kiện
cho mọi người được phát triển nhân cách của mình mà thôi, nhưng như Đức Kitô đã
gánh tội nhân loại thế nào, thì cộng đồng kitô hữu cũng liên đới chịu tránh
trách nhiệm về tội ác của bất cứ ai trong cộng đồng nhân loại vấp phạm. Ngoài
ra, giáo hội trên bình diện là tập thể những con người, đã từng phạm lỗi, và
hơn bất cứ ai, giáo hội đó cần phải thú tội để mãi canh tân. Giáo hội công giáo
không phải không biết nhận lỗi như báo chí hay lặp đi lặp lại, nhưng có lẽ vì
đã dám làm và làm nhiều lần, nhiều dịp, từ cấp giáo hoàng đến các hàng giám mục
vùng, quốc gia, giới trí thức cũng như thành phần dấn thân cho nhân quyền…đến
độ có thể gây ấn tượng tiêu cực một cách vô cố theo sự thường xã hội là đàng
khác.
b/ Thực hiện nơi chính mình: Nhân quyền trong giáo hội
Hẳn nhiên, ai cũng hiểu rằng không ai cho cái mình không có.
Giáo hội công giáo cổ võ Nhân quyền hữu hiệu nhất khi cho thấây tự nơi cuộc
sống giáo hội của mình, từ vị giáo hoàng đến người tín hữu bình thường nhất,
tất cả xem nhau là huynh đệ trong Đức Kitô chứ không phải là kẻ nắm quyền và
người bị trị. Mẫu mực đó là mẫu mực hoàn thành thời chung mãn. Giáo hội ngày
nay vẫn là giáo hội lữ hành với bao bất cập và nhiều hy vọng vươn lên. Nhưng
trên bình diện xã hội, thế giới chưa bao giờ chứng kiến một cuộc đổi thay nhanh
chóng về canh tân nếp sống cho hợp với những tiêu chuẫn nhân quyền lý tưởng nơi
các cộng đồng chính trị hay tôn giáo, hơn là cộng đồng công giáo từ sau Công
Đồng Vaticanô II.
Không thể kể ra một cách chi tiết tất cả các đổi thay, nhưng
một cách chung người tín hữu ở bất cứ cương vị nào cũng không thấy mình bị một
quyền lực giáo hội trên đầu trên cổ như một áp lực hay một đe dọa nào đó. Các
chức sắc giáo hội càng ngày càng tự cảm thấy mình có bổn phận phục vụ cộng đồng
hơn là ‘ông quan lớn nắm trong tay chìa khóa nước trời’; phía tín hữu bình
thường, đã quen với lối giao tiếp dân chủ với các chức sắc dân sự, nay tiếp cận
với các vị trong hàng giáo phẩm hay giáo sĩ như những ‘thừa tác viên’ hơn là
một đấng bậc. Người tín hữu có quyền đòi hỏi chức sắc giáo hội chu toàn phận vụ
cộng đồng để thõa mãn một nhu cầu tôn giáo của mình, chẳng hạn như có quyền
được chuẩn bị hôn nhân công giáo, có quyền đòi linh mục giải tội theo luật giáo
hội mà đôi đường phải tuân giữ ( không khác đòi hỏi bác sĩ chữa bịnh hay nhà
chức trách hành chánh làm giấy tờ cho mình), chứ không cảm nhận như phải xin xõ
một ân huệ của cá nhân nào ban cho. Hơn thế nữa người ta cảm thấy có quyền và
bổn phận lên tiếng trong giáo hội. Mặc dầu đây đó từ nhiều cấp độ khác nhau, ở
các địa phương khác nhau còn có những đánh giá tiêu cực về việc lên tiếng của
cá nhân hay một nhóm tín hữu để biểu lộ quan điểm của mình hay đòi hỏi một vị
hay một cơ quan giáo hội làm sáng tỏ một vấn đề. Nhưng việc lên tiếng đã trở
thành quen thuộc và dần hồi được đánh giá là sự kiện hiển nhiên trong cuộc sống
bình thường của giáo hội công giáo…
c/ Nhân chứng đức tin
Người tín hữu công giáo vẫn tiếc rằng đáng lý ra tổ chức
giáo hội công giáo phải đi trước xã hội dân sự trong cách đối xử huynh đệ với
nhau, tại sao đạo phải đi sau xã hội dân sự trong cách đối xữ theo đường lối
dân chủ trong những sinh hoạt điều hành và tổ chức? Nếu giáo hội công giáo đã
từng áp dụng lối tổ chức và điều hành của đế quốc La Mã, tại sao ngày nay lại
ngại ngùng trước lề lối dân chủ tân thời? Hẳn nhiên không thể rập khuôn theo
thể chế dân chủ trong bất cứ sinh hoạt nào của giáo hội vì những lý do mạc khải
và thần học, nhưng phải nhận một thực trạng nầy: người tín hữu chờ đợi nhiều
cải cách làm sao để công việc chung của giáo hội không phải là ưu lo riêng,
phận vụ riêng của một giới, một bậc sống mà của mọi tín hữu. Và không phải
trong nguyên tắc nhưng trong thực tế áp dụng với những điều kiện thực hiện
được.
Giáo hội công giáo trong tinh thần tự kiểm và canh tân không
tìm cách biện minh, nhưng không vì một số những vấn đề cần canh tân liên tục
của mình mà quên đi sứ mạng nói lên Sự Thật, vốn không phát xuất từ
‘những con người’, nhưng từ Thiên Chúa mà giáo hội tuyên xưng đức tin[11].
Như giáo hội đã từng lưu ý về mối liên hệ không thể phân ly
giữa mến Chúa và yêu người, việc cổ võ Nhân quyền của giáo hội không có nghĩa
là tôn vinh tự do, tự chủ cá nhân bất chấp đạo lý (nghĩa là các mối tương thuộc
với Thiên Chúa và tha nhân). Trong khung cảnh văn hóa tân thời với tự do được
hiểu là làm theo trí năng tự mãn theo lối nói của Fr. Nietzsche : « cái gì
có thể làm được đều được phép làm », giáo hội lại thấy mình có lúc cần
phải đi ngược trào lưu thế tục để bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền đích thực. Lập
trường của giáo huấn về sự sống, về tương quan chân lý và tự do, về chiều
kích đạo lý và giới hạn của sinh học, về phẩm giá đích thực của người phụ nữ,
số phận thai nhi, ý nghĩa và giá trị gia đình và tính dục.. thường gây phẫn uất
trong nhiều giới tự nhân là tiến bộ. Ngay trong nội bộ công giáo người ta
cũng lên tiếng dựa trên nhiều tiêu chuẩn khác nhau, với nhiều lối đánh
giá, xếp loại tiến bộ, bảo thủ nầy khác. Quyền phát biểu là một nội dung nhân
quyền, tuy nhiên chúng ta biết rằng: nếu thiên hạ ai ưa gì làm đó thì đâu cần
đến mặc khải Chân Lý đến từ trời cao !
4/ Nhân quyền và giáo hội Việt Nam
‘Bây giờ không phải lúc đọc diễn văn hoặc lặp đi lặp lại
không ngừng trên môi miệng các quyền của con người, nhưng bây giờ là lúc cần
khiêm tốn thực tập, thi hành mỗi ngày và không bao giờ dứt.’[12]
Trên đây là nhận định của Hồng Y Roger Etchegaray trong lời
tựa cho tập tài liệu Nhân Quyền và Giáo Hội do Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý Hòa
Bình mà lúc đó ngài là vị chủ tịch đương thời, xuất bản năm 1990. Người ta đã nói
đến nhân quyền rất nhiều và các tài liệu không thiếu. Những phần trình bày ở
các mục trên đây chỉ nhằm qui chiếu vào hoàn cảnh kitô hữu Việt Nam chúng ta
trong phận vụ sống và làm chứng Tin Mừng cho người bên cạnh, đặc biệt là đồng
bào chúng ta.
Với Công Đồng Vaticanô II, chúng ta không có quyền biện minh
cách nầy hay cách khác để đi ngược lại giáo huấn và sự hiệp thông giáo hội khi
nói rằng cổ võ và thực thi nhân quyền là một thái độ tùy nghi. Giáo huấn
liên tục nhắc nhở cho mỗi tín hữu, cho từng cộng đoàn, mỗi trách nhiệm trong
giáo hội rằng sống đạo trọn nghĩa, trưởng thành, trách nhiệm, trung tín với lời
mời gọi của Thiên Chúa là phải liên kết chặt chẽ giữa mến Chúa và yêu người.
Giáo hội và Công Đồng không tự suy diễn ra, nhưng nhắc lại lời dạy rõ ràng của
Chúa Kitô được ghi chép trong Phúc Âm.Cổ võ và thực thi nhân quyền là phương
cách yêu người cụ thể, là một nghĩa vụ của người đã chịu phép rửa.
Chúng ta đều biết rằng dù không nói đến chữ nhân quyền, dù
không cổ võ nhân quyền theo phương cách của các quốc gia và giáo hội tây
phương, nhưng ngày ngày biết bao kitô hữu Việt Nam đã âm thầm hy sinh mình để
thăng tiến cuộc sống cho người cạnh mình, giúp tha nhân sống phát huy phẩm giá
mình. Nhưng kể ra như thế và dừng lại đó để mặc ngày tháng trôi qua xem như xã
hội đã quá tốt đẹp, hoặc lấy cớ tây phương và chúng ta hai nền văn hóa khác
nhau, đó và đây có những hoàn cảnh xã hội hoàn toàn trái nghịch, để dậm chân
tại chỗ đến độ xem như cổ võ cho nhân quyền chỉ là thái độ điên rồ vô lối, một
sở trường của giới làm chính trị nào đó, thì có lẽ đến lúc phải kiểm điểm tâm
thức sống đạo của mình.
Nhưng giáo hội công giáo Việt Nam là ai? Và ai có tư
cách để cổ võ nhân quyền?
Tâm thức chúng ta phải chăng còn cho rằng giáo hội là hàng
giáo phẩm, các giáo sĩ tu sĩ mà thôi nên mãi ngồi chờ các ngài cổ võ và thực
thi nhân quyền thay cho mình ? Không phải giáo huấn giáo hội đã chỉ dẫn
rằng giáo dân phải ở tuyến đầu để dấn thân vào các lãnh vực trần thế hay sao?
Nhưng mặt khác, hàng giáo phẩm có biểu lộ (chưa nói đến nghĩa vụ giáo huấn và
thực hiện trước như giáo triều Roma và các giám mục các nơi đã thường xuyên
thực hiện) cho tín đồ của mình xác tín rằng việc cổ võ và thực thi nhân quyền,
bất cứ ở cương vị hay thân phận nào, là sống đạo hay không?
Nếu xã hội dân sự Việt Nam đã từng chịu cơn rúng động về đổi
thay tâm thức và canh tân lối cư xử ăn khớp với những đòi hỏi của nhân quyền
qua các trào lưu cải cách thời tiền chiến, đặc biệt của nhóm Tự Lực Văn Đoàn,
thì phía cộng đồng các tôn giáo Việt Nam, trong đó có công giáo, dường như chưa
hề biết đến những nỗ lực đổi thay và canh tân nội bộ như thế. Hẳn nhiên ảnh
hưởng xã hội, các giáo huấn giáo hội và hình thức nghi lễ thấm nhập một phần
nào đó và cải biến tâm thức của hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, nhưng ý chí
chung muốn có những cải cách có phương pháp, qui mô và phổ biến thì thú thực
chưa ai nghĩ đến. Người giáo dân, không ai ép uổng để làm thinh hay thụ động
đứng xa hoặc không dám nhắc đến việc điều hành cộng đồng, nhưng quyền hạn đó họ
cam nhận như là thuộc bề trên là thành phần giáo sĩ. Nhân danh sự tôn trọng bậc
bề trên là một giá trị văn hóa tôn giáo và truyền thống Á Đông mình, nhân danh
sự kiến hiệu nhất thời (khỏi phải bị hạch xách thêm rắc rối !), cộng đồng
chúng ta bằng lòng với mẫu mực đặt đâu ngồi đó, âm thầm trở thành con chiên
ngoan ngoãn, vô tình nếp an bình giả tạo ấy đánh mất quyền tham gia của
tín hữu một cách tích cực vào sinh hoạt của giáo hội.
Trong nỗ lực cổ võ nhân quyền một cách vị tha đúng theo tinh
thần Phúc âm, không phải chỉ đấu tranh cho quyền lợi của giáo hội mình và hạn
chế trong sinh hoạt phụng tự của cộng đồng mình; nhưng cảm nhận những khó khăn
oan ức của người cạnh mình, lên tiếng để công lý được thực hiện cho bất cứ
người nào, đoàn thể, tổ chức, sinh hoạt nào, khi quyền tự do của họ bị vi phạm.
Trong ý hướng và nội dung nhân quyền như thế, thì chúng ta thành thực nhận rằng
trên bình diện tổ chức cộng đồng chưa có nhiều những cử chỉ quảng đại, can đảm
để lo cho kẻ khác mình.
Thay lời kết
Ngày nào còn con người thì còn có những tương quan khó khăn
gây ra nhiều vi phạm chà đạp phẩm giá con người ; những kẻ bị xúc phạm đến
phẩm giá của mình, hơn ai hết, họ phải là ưu tư hàng đầu của người tin vào tình
yêu Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Họ là những người nghèo mà giáo hội phải phục vụ
chứ không chỉ là người nghèo đói vật chất mà thôi. Chúng ta không thể
« bất nhân » khi muốn thực hiện nước Trời. Trong bối cảnh xã hội Việt
Nam, một xã hội mà không ai dám nói là nhân quyền được tôn trọng, thì thờ ơ hay
tránh né cổ võ và thực thi nhân quyền làm sao có thể biện minh được khi mình
được Đức Kitô mời gọi làm nhân chứng của yêu thương. Và cũng trong bối cảnh xã
hội Việt Nam như thế, việc nêu lên nhận xét cho rằng phận vụ dấn thân cho nhân
quyền là thiếu hiểu biết, xa xỉ hoặc tùy nghi, thì việc làm đó đáng đặt cho
lương tri người công giáo Việt Nam thách đố tự kiểm.
Và để kết luận chúng tôi xin chép lại lời của Walter Kasper
khi vị nầy trình bày về nền tảng thần học của nhân quyền[13]:
‘Đức Giáo hoàng Phaolô VI từng nói: giáo hội là chuyên gia
về các vấn đề nhân tính[14] Từ
tước vị đầy vinh dự đó, giáo hội phải là một gương sáng về công lý[15].
Những tương quan giữa các tín hữu, giữa các thừa tác vụ khác nhau và tín hữu,
giữa quyền giáo huấn của giáo hội và các nhà thần học, trong giáo hội, cần có
được một bầu khí tự do, khoan dung và tin cậy nhau. Giáo hội phải là một giáo
hội với khuôn mặt nhân đạo. Nên, việc phục vụ mà giáo hội có thể thực hiện cho
nhân quyền không phải chỉ bằng lời huấn dụ, dù quan trọng đến thế nào đi nữa,
nhưng cũng bằng gương sáng công việc làm của mình. Giáo hội có bổn phận phải
biện minh, giải thích, bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền không chỉ bằng lời nói,
nhưng hơn nữa còn phải bằng hành động và cuộc sống của mình. Hơn ai hết, giáo
hội không được làm cho thế giới chúng ta ngày nay phải thất vọng về nỗi khao
khát công lý và ước muốn sôi nổi tìm về nhân tính của mình.’
_____________
Tài liệu tham khảo
Các tài liệu công đồng Vaticanô II đặc biệt chương hai
của Hiến chế vui mừng và hy vọng (Gaudium et Spes) và Tuyên ngôn về tự do
tôn giáo (Dignitatis Humanae)
Các văn kiện quan trọng liên quan đến cuộc sống xã hội của
các Giáo Hoàng Piô VI (Thư Quod aliquantum, thông điệp Adeo Nota),
Piô VII (Tông Thư Post Tam Diuturnas),Grêgôriô XVI (Thông điệp
Mirari Vos), Piô IX ( Thông điệp Nostis et Nobiscum và
Quanta Cura), Lêô XIII (Immortale Dei, Sapientiae Christianae,
Libertas và nhất là Rerum Novarum), Piô XI (TĐ Divini
Redemptoris), Piô XII (Sứ điệp truyền thanh ngày Noe¨¨l 1944),Gioan
XXIII (TĐ Pacem In Terris), Phaolô VI (TĐ Populorum Progressio, Tông
ThưOctogesima Adveniens), Gioan Phaolô II (TĐ Sollicitudo Rei
Socialis*, Tông Thư TertioMillennio Adveniente*..)
Tài liệu của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 về
‘Công Lý trên Thế giới’
Các tài liệu của Văn Phòng và sau đó là Hội Đồng Giáo
Hoàng Công Lý Hòa Bình :
- L’Eglise et les droits de
l’homme (Documents de travail N- 1 , 1975)
- La Liberté Religieuse (Textes de
Jean-Paul II , présentés par le père Roger Heckel)
- Pourquoi et comment l’Eglise intervient en matière
socio-politique (Textes de Jean-Paul I I, présentés par le père Roger
Heckel)
- Les droits de l’homme (Textes de
Jean-Paul II, présentés par Dr Giorgio Filibeck)
- Les droits de l’homme et
l’Eglise* (Rélexions historiques et théologiques), 1988
- La liberté religieuse et l’Acte final
d’Helsinki, Jean-Paul II
- Le droit au développement (Textes conciliaires
et pontificaux -1960-1990-, présentés par Dr Giorgio Filibeck)
- Nouveau regard sur la doctrine sociale de
l’Eglise* par Hervé Carrier,S.J.
- Cardinal Roger Etchegaray, l’Eglise face
au racisme, Ed. du Centurion, Paris1989
- N. Singh, L’Asie et les droits de l’homme, in K.
Vasak, Les dimensions internationales des droits de l’homme, Unesco, Paris 1978
- Groupe d õauteurs, Droits de
l’homme défi pour la charitéù? éd. Sos, Paris1983
- Dom Besse, L’õEglise et les
libertés, Paris 1913
- G. Thils, Droits de l’homme et
perspectives chrétiennes, Louvain-la-Neuve 1981
- M. Villey, Le droit et les droits
de l’homme, Puf, Paris 1983
- The international Bill of Human Rights
(Luật quốc tế Nhân quyền) luật sư Nguyễn Hữu Thống phiên dịch và diển
giải, Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam ấn hành, 1998
* Đã được Định Hướng Tùng Thư dịch ra Việt ngữ và xuất
bản
__________
Phụ Lục
Liệt kê các nội dung về tự do tôn giáo trên bình
diện cá nhân và trên bình diện cộng đồng trong bức thư ngày 1 tháng 9 năm
1980 của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đích thân gửi cho từng vị nguyên thủy các
quốc gia đã ký tên vào Bản văn kết thúc Hội nghị Helsinki về an ninh và
hợp tác ở Âu Châu năm 1975.
Trích số 4 của Bức Thư.
4. Dựa vào các tiền đề và nguyên tắc nêu trên,
Tòa Thánh cho rằng mình có quyền và bổn phận đưa ra một bản phân tích các yếu
tố đặc loại liên quan đến ý niệm về « tự do tôn giáo » cũng
như về phương cách áp dụng trên bình diện cá nhân và cộng đồng trong
những sinh hoạt cụ thể. Trong cách nói cũng như trong việc ứng dụng tự do
tôn giáo, người ta đều nêu lên sự hiện diện của các bình diện cá nhân và
các bình diện cộng đồng, tư và công; hai yếu tố đó luôn gắn bó mật thiết với
nhau để cho việc thực thi tự do tôn giáo đạt được những chiều kích bổ
sung và tương thuộc:
a/ Trên bình diện cá nhân, phải tôn trọng:
- tự do gia nhập hay không gia nhập vào một niềm tin và vào
một cộng đồng tôn giáo liên hệ ;
- tự do thực thi các hành vi cầu nguyện và phụng tự, bằng
phương cách cá nhân hay tập thể, nơi riêng tư hay một cách công khai, và có
được những nhà thờ hoặc những nơi thờ tự theo nhu cầu của tín đồ đòi hỏi ;
- tự do của bậc phụ huynh giáo dục con cái mình theo niềm
tin tôn giáo mà họ ôm ấp, và có thể đưa con cái học giáo lý và các nội dung tôn
giáo do cộng đoàn đảm trách.;
- tự do của các gia đình trong việc chọn
lựa trường học hoặc các phương cách khác để bảo đảm cho con cái mình về việc
giáo dục tôn giáo mà không trực tiếp hay gián tiếp chịu thêm những gánh
nặng phụ thuộc làm ngăn cản việc thực thi quyền tự do nầy;
- tự do dành cho những người cần được sự trợ giúp về
mặt tôn giáo bất cứ ở đâu, đặc biệt nơi trong các cơ sở y tế công cộng (dưỡng
đường, nhà thương), trong các trại lính và trong các dịch vụ bó buộc của nhà
nước, cũng như trong các trại giam;
- tự do không bị ép buộc phải làm những điều trái với niềm
tin tôn giáo của mình, trên bình diện cá nhân, công dân hoặc xã hội, cũng như
không bị ép buộc phải chấp nhận một lối giáo dục, hoặc tham gia vào những nhóm
hoặc hội đoàn có những nguyên tắc đi ngược với những niềm tin tôn giáo của
riêng mình;
- tự do không phải vì những lý do tôn giáo của mình mà chịu
những hạn chế hoặc những kỳ thị trong những lãnh vực sinh hoạt của đời sống
(liên quan đến sự nghiệp cũng như học vấn, việc làm, nghề ngiệp; tham gia vào
các trách vụ công dân và xã hội, v.v.) so với các thành phần công dân khác.
b/ Trên bình diện cộng đồng, phải xem các tôn giáo,
từng qui tụ các tín đồ thuộc một niềm tin tôn giáo nhất định, thực sự
hiện hữu và hành động như những cơ năng xã hội được tổ chức theo những nguyên
tắc về tín lý và dựa vào những cứu cánh liên hệ mật thiết với các định chế
đặc loại của họ.
Như vậy, Giáo hội, cũng như các cộng đồng tôn giáo nói chung
cần hưởng những quyền tự do nhất định, để sống và theo đuổi các cứu cánh riêng
của mình; trong các quyền tự do như thế, đặc biệt phải nêu lên:
- tự do có một hàng giáo phẩm riêng của mình hoặc các thừa
tác viên liên hệ được hàng giáo phẩm của mình tự do chọn lựa theo những
qui thức của cơ chế tôn giáo mình;
- tự do cho các người hữu trách các cộng đồng tôn giáo –
và trong giáo hội công giáo là các giám mục và các cấp lãnh đạo khác
trong giáo hội -, thực thi một cách thanh thản thừa tác vụ của mình, phong chức
các linh mục hoặc các thừa tác viên, bổ nhiệm vào các phận vụ của giáo
hội, liên lạc và tiếp xúc với những tín đồ;
- tự do có những học viện đào tạo tôn giáo và thần học
riêng; trong các học viện ấy, tự do tiếp nhận các ứng viên vào chức linh mục và
tận hiến trong dòng tu;
tự do nhận và phổ biến các sách tôn giáo liên quan đến niềm
tin và nghi lễ; và tự do sử dụng;
- tự do loan truyền và thông tri giáo huấn đức tin, bằng lời
nói và bằng chữ viết, kể các bên ngoài những nơi phụng tự, và tự do phổ biến
quan điểm đạo đức liên quan đến các sinh hoạt con người và tổ chức xã hội: điều
nầy ăn khớp với cam kết của Bản văn kết thúc Hội nghị Helsinki về việc
tạo dễ dàng cho việc quảng bá thông tin, văn hóa và các hình thức trao đổi kiến
thức và kinh nghiệm trong lãnh vực giáo dục, và trong lãnh vực tôn
giáo ; điều nầy tương hợp với việc truyền bá Phúc Âm của Giáo hội;
- tự do sử dụng các phương tiện truyền thông (báo chí,
truyền thanh, truyền hình) trong mục tiêu như thế;
- tự do chu toàn các sinh hoạt giáo dục, từ thiện, cứu trợ
là những sinh hoạt ứng dụng điều răn về yêu thương anh chị em mình, đặc biệt
đối với những người ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất.
Ngoài ra:
Đối với những cộng đồng tôn giáo, như giáo hội công giáo, có
một Thẩm quyền tối cao ở trên bình diện phổ quát, thì Thẩm quyền nầy, theo đòi
hỏi của niềm tin của mình, có trách nhiệm bảo đảm sự hiệp nhất trong mối hiệp
thông nối kết tất cả các mục tử và tín đồ trong cùng một niềm tin tôn giáo, qua
quyền giáo huấn và quản trị: – -tự do có những liên lạc qua lại giữa Thẩm quyền
nầy và các mục tử cững như các cộng đồng tôn giáo địa phương, tự do quảng bá
các văn kiện và các tài liệu của giáo huấn (thông điệp, huấn thị..)
-trên bình diện quốc tế : tự do trao đổi về truyền
thông, tự do hợp tác, liên đới có tính cách tôn giáo, đặc biệt là có thể gặp
gỡ, hội họp liên quốc gia hoặc quốc tế.
Cũng trên bình diện quốc tế, tự do trao đổi tin tức và các
nội dung về thần học hoặc tôn giáo giữa các cộng đồng tôn giáo với nhau.
(Bản dịch Tập san Định Hướng)
Nguyễn đăng Trúc
Strasbourg, pháp
[1] Walter
Kasper,Nền tảng thần học của nhân quyền, trong NHÂN QUYỀN VÀ GIÁO HỘI,
HĐGH Công Lý Và Hòa Bình, Vatican, xb, 1990, Địịnh Hướùng chuyễn dịch và xb
1999, trang 69
[2] SD
tr 69-70
[3] « Nhưng
dư luận và các nước tỏ ra tha thiết với nhân quyền như thế, xem ra chỉ là hình
thức bên ngoài. Sự kết ước của họ không nhất thiết hàm ngụ cùng một ý nghĩa.
Trong khung cảnh của truyền thống Địa trung hải, chủ thuyết về nhân quyền
được hiểu như cái gì hiển nhiên, dựa vào lý chứng của một nền triết học
đề cao cá nhân; nhưng các vùng văn minh khác lại không có cùng quan điểm có
tính cách tây phương như vậy. Các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa đã ưu tiên nhấn
mạnh đến quyền tập thể của con người chứ không phải các quyền cá nhân; và nhất
là các nhóm quốc gia thuộc vào những truyền thống tư tưởng ngoài Âu châu, họ
khó mà đồng ý về bản văn tuyên ngôn nhân quyền; họ quan niệm những loại quyền
riêng thuộc mỗi nền văn hoá (các nước Hồi giáo, các nước thành viên của O.U.A);
không nói đến những xứ Á châu mà nhiều luật gia tại đây cự khước những nội dung
của tuyên ngôn nhân quyền và cho rằng chúng ngoại lai đối với truyền thống văn
hoá của họ; kỳ thực, tại các nước nầy của thế giới, “nhiều hệ thống pháp luật
và xã hội đã lấy ý niệm về bổn phận và các trách nhiệm là ý niệm nền tảng, hơn
là dựa vào ý niệm các quyền”; và việc tôn trọng luật pháp ở vùng đất đó được
quan niệm một cách hoàn toàn khác với phương cách Tây phương, bởi vì “nó còn lệ
thuộc vào một số lớn yếu tố bên ngoài nội dung thuần pháp luật như các giá trị
xã hội và đạo đức, các niềm tin tôn giáo, tập tục địa phương, tôn trọng quyền
bính…” Rev Joseph Joblin SJ. SD tr17
[4] Hervé
Carrier SJ Một cái nhìn mới về học Thuyết xã hội công giáo, Quyển
một, Bản dịch việt ngữ Định Hướùng 1999 tr 53 « Nhiều người
công giáo đã tuừng ngại ngùng để hoàn toàn đồng ý vớùi Bản Tuyên Ngôn Nhân
Quyền (1948) vì họ tiếc rằng bản văn ấy không nhìn nhận những quyên căn Bản của
Thiên Chúa »
[5] M.
Villey, Le droit et Les droits de l’homme Puf, Paris 1983, 174.
[6] Walter
Kasper sd tr 75 « Thật thế, về mặt lịch sử, các thành ngữ tân
thời về nhân quyền là những hiện tượng của khủng hoảng. Các hiện tượng
khủng hoảng như thế phát sinh trong lịch sử từ khi trật tự thời Trung cổ sụp
đổ. »
[7] Rev Joseph
Joblin SJ SD tr 50
[8] Dom
Besse, l’Eglise et les libetés, Paris, 1913, 122-126
[9] TĐ Pacem
in terris, phàn 159-313 SD-53-54
[10] J.M.
Aubert Eglise et Droits de l’homme, in Droits de l’homme
défi pour la Charité SoS xb Paris 1983, tr 165-166
[11] Xem TĐ
Hào Quang Chân Lý của GH Gioan Phaolô II
[12] Roger
Etchegaray, Lời tựa SD
[13] Walter
Kasper SD tr 104
[14] Đức Phaolô
VI, Sứ điệp gửi Đại Hội Đống Liê n Hiệp Quốc (.10.1965) AAS LVII
(1965), 8,78.
[15] Đức Gioan
Phaolô II Aux membres de la Sacra Romana Rota (17.2.1979);AAS LXXI
(1979), 422 (trích trong O. Hoffe e.a [Edit], Johannes Paul II (chú thích 49,
113 tiếp theo.
Nguồn: Công Giáo Việt Nam