VỀ Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG
Peter Seewald: Giáo hội
dạy, con người tự mình không thể tạo ý nghĩa cho thế giới và cho chính mình.
Quả thật khó tin, nếu ta nhìn vào những thư viện mênh mông đầy sách nói về cuộc
đời và ý nghĩa cuộc đời, do những tác giả giỏi vừa và ít giỏi hơn viết.
HY Ratzinger: Nếu thế giới đã không có ý nghĩa trong nó rồi,
thì ta cũng chẳng có thể tạo thêm ý nghĩa nào cả. Hành động của ta
chỉ giúp cho cơ cấu đã có định hướng thêm rõ ra đôi chút, chứ nó không tạo ra
chính ý nghĩa cuộc sống. Ý nghĩa đã có - hoặc không có. Vì vậy, nó không thể
đơn giản là một sản phẩm của ta. Những gì ta tạo ra, có thể làm cho ta thoả mãn
trong giây lát, nhưng chúng không thể biện minh cho toàn bộ cuộc sống của ta và
tạo nghĩa cho cuộc sống đó.
Giáo hội dạy, ý nghĩa là do Chúa chứ không do con người tạo
ra, phải được hiểu theo hướng này: Ý nghĩa là cái nâng con người đi, là cái ở
trước và ở trên những suy tưởng và khám phá của ta – và chỉ như vậy nó mới có
sức mạnh để nâng ta đi.
Peter Seewald: Nếu ta
thật sự có thể thu tóm ý nghĩa cuộc đời vào một chữ, thì chữ đó sẽ là TÌNH YÊU.
Thi sĩ và học giả mọi thời bảo đó không những là ý nghĩa, mà cũng là nguyên tắc
nền tảng của sự sống, là bí ẩn thật sự của cuộc đời. Có người bảo, ai cảm được
cái vô tận của tình yêu này, người đó mới bước được vào tâm điểm của đức tin.
HY Ratzinger: Trong cuộc trao đổi, chúng ta đã lặp đi lặp lại
nhiều lần, là cùng đích cuộc sống của chúng ta là khám phá ra tình yêu, đón
nhận nó và trao nó đi tiếp. Đức Ki-tô chịu đóng đinh, kẻ đã đưa tình yêu tới
tận cùng, như chính Tin Mừng Gio-an nói, đã hiện thực hoá nguyên tắc đó. Chính
Thiên Chúa là tình yêu. Trong ý nghĩa đó, tình yêu là luật căn bản, và là cùng
đích căn bản của cuộc sống.
Ở đây, ta gặp lại bí ẩn hạt lúa miến, trở lại với việc từ bỏ
mình và gặp lại mình. Ta biết rằng, tình yêu không do ta làm nên, nhưng đó là
quà tặng. Tình yêu xuất phát từ một người khác đi tới với ta, đi vào trong ta.
Tình yêu con người luôn hàm chứa một đòi hỏi đời đời trong
nó. Tình yêu là một mâu thuẫn với sự chết, như triết gia người Pháp Gabriel
Marcel* đã nói. Tình yêu này, như vậy, từ một lời hứa chỉ trở thành thực tại
được tuân giữ, khi nó được bao trùm bởi yếu tố đời đời. Marcel bảo, khi tôi nói
với một người „Tôi yêu anh/em“, thì điều đó có nghĩa: Tôi không chấp nhận cái
chết của anh/em, tôi chống lại cái chết.
Như vậy, ta thấy tình yêu con người tự nó là một lời hứa
không thể tháo gỡ. Nó muốn sự vô hạn nhưng có thể chỉ cho cái hữu hạn. Nhưng
mặt khác, nó biết lời hứa đó không phải là vô nghĩa và mâu thuẫn và vì thế có
tính huỷ diệt, bởi vì nó chứa cái vô tận trong mình. Như vậy, chỉ nhìn theo
khía cạnh con người mà thôi, thì tình yêu quả thật là cái chúng ta hướng vọng
tới và sống cho nó. Nhìn từ các chiều kích của chính nó, thì tình yêu rốt cuộc
hàm chứa trong nó cái nhìn lên Chúa và mong chờ Ngài.
Peter Seewald: Tình yêu,
đôi khi nói thì dễ, nhưng mấy ai hiểu nó là gì. Chẳng hạn mấy ai hiểu được Chúa
yêu ta như thế nào? Chúng ta đã nói tới một „Thiên Chúa phẫn nộ“. Có người bảo
Chúa cũng loan báo một sứ điệp đe doạ. Tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho ta mang
hình thù ra sao?
HY Ratzinger: Trước hết, phẫn nộ không phải là cái gì đương
nhiên chống lại tình yêu. Chẳng hạn một người cha, anh biết điều đó hơn tôi,
thỉnh thoảng cũng phải bực bội với con, vì ông ta yêu con mình. Và ông ta có lẽ
sẽ không làm tròn bổn phận và ý muốn yêu thương của mình, nếu chỉ vì muốn yên
thân cho chính mình và cho người khác, nên chẳng nghiêm khắc răn đe, sửa phạt
con.
Chúng ta đều biết, một đứa con hư, cái gì cũng nó được phép
làm, rốt cuộc không thể có một đời sống tốt đẹp, bởi vì cuộc sống sau này không
dễ dãi như nó đã gặp, và bởi vì nó đã không học được kỉ luật, không học được cách
sống đúng. Hay một thí dụ khác về con cái nghiện ngập. Thay vì cất thuốc đi
(làm thế đứa con sẽ rất khổ sở) thì tôi lại cung cấp thuốc cho nó. Đó không thể
gọi được là yêu thương đúng nghĩa.
Nói cách khác: Tình yêu đúng nghĩa không phải là luôn nhượng
bộ, dễ dãi và ngon ngọt. Do đó, nếu đức Giê-su hay Chúa chỉ luôn tỏ ra ngọt
ngào, dễ thương, cái gì cũng ừ, thì đó chỉ là một biếm hoạ về tình yêu đích
thực mà thôi. Vì Chúa yêu ta, muốn ta lớn lên trong đường chân lí, nên Ngài
phải đòi hỏi và cả sửa sai ta. Thiên Chúa phải, như ta nói, „phẫn nộ“, nghĩa là
Ngài phải chống lại, khi chính ta sa ngã và rơi và vòng nguy hiểm.
Peter Seewald: Nghe thật
nghiêm khắc.
HY Ratzinger: Điều quan trọng cần biết, một tình yêu chân thật
cũng phải có tính nghiêm khắc trong đó. Nó muốn cho người khác điều tốt thật,
vì thế nó phải can đảm chống lại, khi người đó chẳng nhìn ra cái tốt, mà cứ đâm
đầu vào cái bất hạnh.
Chúng ta cũng đã nói tới khía cạnh tích cực của tình yêu. Nó
yêu thích người khác. Nó muốn cho họ được điều tốt đẹp, được hạnh phúc, được
nhận ra chính mình. Và như vậy thì tình yêu tốt cho họ. Nhưng tốt cho họ không
có nghĩa gì khác hơn là tôi phải bước ra từ điều tốt, phải để cho điều thực sự
tốt hướng dẫn và cố gắng giúp người khác trở nên tốt. Như vậy, một hành động
yêu đúng nghĩa là hành động bước ra từ điều thiện và lại quay trở vào trong
điều thiện. Và như thế, một đàng, yêu cũng có nghĩa là quên mình vì người khác,
và mặt khác, cũng là giúp đỡ kẻ khác. Giúp người khác đừng đóng chặt tâm họ
lại, cũng đừng vơ vào mọi thứ cho mình, nhưng trái lại giúp họ tìm được con
đường mở lòng mình ra, con đường của hạt lúa miến.
Peter Seewald: Triết gia
tôn giáo người Do-thái Martin Buber mô tả tình yêu Thiên Chúa bằng một thuộc
tính quan trọng, mà ông gọi là “lôi ra, kéo ra”. Buber nói: “Kéo lôi ra, ngay
từ đầu, là bản chất của Thiên Chúa. Kéo ra khỏi những vướng mắc, ra khỏi sự
dửng dưng, ra khỏi cô đơn và cô lập”.
HY Ratzinger: Về điểm này ta có thể lấy hình ảnh xuất hành của
dân Do-thái ra khỏi tù đày ở Ai-cập làm mẫu. Nhưng nó đã khởi đầu với ơn gọi
của Abraham. Chúa đưa ông Abraham ra khỏi gia đình ông và dẫn ông lên đường. Tự
căn bản, mỗi người phải làm cuộc xuất hành của mình. Không những người đó phải
rời lòng mẹ để trở thành tự lập, mà còn để ra khỏi chính mình. Người đó phải đi
ra, qua khỏi mình, chỉ như thế nó mới vào được đất hứa - bước vào được không
gian tự do, để từ đây góp tay xây dựng thế giới. Bản chất của tình yêu là vượt
qua, quy luật nền tảng đó chúng ta đã biết. Hẳn nhiên, hành động của kẻ yêu tôi
cũng là một hành động vượt qua. Nó phải kéo tôi ra khỏi bản năng thoải mái muốn
ở lại trong chính tôi.
Peter Seewald: Một bậc
thầy về phân tâm, Erich Fromm*, đã tự hỏi: Tại sao ta phải yêu?
Fromm nghĩ là câu trả
lời nằm trong kinh nghiệm hãi hùng về cô đơn, về chia lìa, phát sinh từ biến cố
bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Chính vì vậy con người mới có nhu cầu mạnh mẽ
hướng tới sự đồng dạng, tới những kinh nghiệm ngất ngây trong một nhóm. Đối
lại, ông cho rằng nghiện rượu, nghiện thuốc và tự tử trong thế giới hiện nay là
triệu chứng thất bại trong nỗ lực đồng dạng.
Rồi Fromm bước thêm
một bước. Ông nói, chúng ta không thể giải quyết tình trạng chia lìa này bằng
việc làm, thành công, thích nghi hay cả bằng những kinh nghiệm ngất ngây, tất
cả những thoả mãn đó chỉ mang tính cách tạm thời. Câu trả lời đích thực cho vấn
nạn nền tảng đó chỉ có qua việc kết hợp với một người khác, nơi tình yêu.
Fromm: “Đòi hỏi kết hợp với một người khác là đòi hỏi mạnh nhất nơi con người.
Đó là đòi hỏi căn bản nhất, là sức mạnh duy trì giống người, duy trì bộ tộc, gia
đình và xã hội. Thất bại của đòi hỏi đó có nghĩa là điên loạn hoặc huỷ diệt -
tự huỷ diệt hay hủy diệt kẻ khác. Theo ông, không có tình yêu, nhân loại không
thể hiện hữu được chỉ một ngày”.
HY Ratzinger: Cái hay của Fromm, là ông coi cô đơn đối nghịch
với tình trạng tự nhiên của tâm hồn con người. Nếu cô đơn là không được yêu, là
bị bỏ rơi, là chỉ có trơ một mình mà thôi, và như thế đời tôi trống rỗng, thì
tình trạng đó quả là nỗi kinh hãi sâu xa nhất của mọi kinh hãi. Từ đó, ta lại
thấy con người, nhìn từ bên trong, quả là hình ảnh của Chúa, nó được tạo nên để
được yêu và để trở thành một kẻ yêu.
Tôi tin rằng, ở đây ta nhất định phải nói tới hình ảnh Chúa
trong con người. Thiên Chúa là tình yêu. Chính tình yêu nền tảng thể hiện trong
ba ngôi. Con người là hình ảnh Chúa, như vậy, nó được sinh ra với động lực
chính yếu là để nhận và cho tình yêu.
Con đường đưa vào tình yêu đúng nghĩa gắn liền với sự từ bỏ
mình, nghĩa là gắn liền với nỗ lực của một cuộc xuất hành. Do đó, trên con
đường dẫn tới nó, đã phục sẵn nhiều cám dỗ thúc ta muốn đạt đích nhanh, bằng
qua những thoả mãn thay thế, mà anh đã vừa đề cập ở trên.
Chỉ về sau người ta mới hiểu ra, cái thay thế đó chỉ là
những lừa đảo kinh tởm, nó rốt cuộc xô ta vào nỗi cô đơn kinh hoàng, xuống hố
thất vọng của sự trống rỗng tuyệt đối. Hình ảnh hoả ngục là đó. Bởi khi ta tự
hỏi, bị giam lửa hoả ngục là gì, thì điều đó có nghĩa: chẳng còn tìm được thích
thú nơi cái gì nữa cả, chẳng yêu thích gì nữa cả, chẳng thích ai mà cũng chẳng
được ai thích. Hết khả năng yêu, và như thế là bị đuổi ra khỏi không gian có
thể yêu – đó là sự trống rỗng tuyệt đối, trong đó con người sống mâu thuẫn với
chính mình và cuộc sống tiêu vong hoàn toàn.
Nếu thật bản chất con người là giống Chúa, là trở thành một
kẻ yêu, thì nhân loại và mỗi người chúng ta chỉ có thể tồn tại khi tình yêu có
mặt và khi ta cũng được chỉ dạy để đi tới tình yêu đó. Ở đây, ta có thể quay
trở lại với đức Ki-tô: Hành động cứu chuộc của đức Ki-tô nằm nơi chỗ Ngài làm
cho ta hiểu được tình Chúa yêu ta như thế nào. Ngài mang tình đó tới với mỗi
chúng ta, và chính Ngài vác thập giá đi với ta tiến về mục tiêu quên mình, từ
bỏ mình.Với hành động đó, Ngài đã biến luật yêu thương thành quà tặng yêu
thương, và như thế là Ngài đã thắng vượt được nỗi cô đơn của mọi cô đơn, nỗi cô
đơn này cũng có thể coi như là việc mất ơn cứu chuộc.
HỌC YÊU NHƯ THẾ NÀO?
Peter Seewald: Nhưng quả
lạ, dù cho khao khát yêu thương cắm rễ sâu như thế trong lòng, con người vẫn
coi những cái khác quan trọng hơn: Thành công, tình dục, danh tiếng, tiền,
quyền. Hầu như tất cả sinh lực của ta được bỏ ra để tìm cách đạt những đích đó.
Và hầu như chẳng ai quan tâm một tí gì để học lấy nghệ thuật yêu.
HY Ratzinger: Nhiều điều anh vừa nói chỉ là những con đường
tắt, đường thay thế. Họ làm thế để chóng đạt đích mà chẳng phải phiêu lưu vào
con đường từ bỏ mình. Đó là một chuyện. Còn việc phát triển khả năng mình thì
họ coi là chuyện phụ. Việc phát triển khả năng này chính là ơn gọi của con
người – và cũng có thể nói nhờ đó họ mới thực thi được sứ mạng yêu thương của mình.
Con người cần cập nhật và tập luyện những khả thể đã được
Tạo hoá đặt để trong họ, họ cần làm một cái gì đó trong cuộc đời này. Như vậy,
việc học nghề và nỗ lực dấn thân cho nghề đó rõ ràng không đi ngược lại nhiệm
vụ căn bản của tình yêu, nhưng là cụ thể hoá tình yêu. Có thể nói, tôi chỉ hoàn
thành đầy đủ sứ mạng yêu thương của tôi, khi tôi hoàn toàn trở nên kẻ mà tôi có
thể trở thành, khi tôi cho được cái tôi có thể cho, khi tôi mở ra cho tạo vật
và quan hệ giữa người với người những khả thể giúp nhau chung sống, và làm cho
sự phong nhiêu của thế giới và đời sống trở thành vườn ươm an toàn và tự do.
Nhiệm vụ căn bản trên sẽ không thành đạt, khi việc học nghề
chỉ còn nhắm tới việc tập luyện những khả năng; khi việc làm chủ thế giới và
khả năng kiếm tiền, khả năng sử dụng quyền lực tách rời khỏi nhiệm vụ thâm sâu
của tình yêu, là hiện diện cho và vì người khác; khi quyền hành khiến tôi không
còn cho đi được nữa; và cả khi tôi chỉ còn biết có tôi, chỉ còn biết ôm vào mọi
thứ cho tôi, và như thế khả năng yêu trong tôi bị chết ngộp. Và rồi con người
bị chế ngự bởi quyền và của, và không còn biết đánh giá đúng những thứ đó nữa.
Quan trọng là chúng ta đừng xem chính khả năng của ta, việc
học nghề của ta là một thứ gì thứ yếu. Nhưng mọi tài năng của ta, và cả mọi khả
năng kĩ thuật của con người, phải giữ đúng chỗ của chúng, và không được chỉ
biết có chúng mà thôi. Khi quyền trở thành tâm điểm, nó sẽ biến con người thành
nô lệ, và như vậy quyền lúc đó là đối lực của tình yêu.
Peter Seewald: Câu hỏi cụ
thể: Một hồng i cũng có thể học nghệ thuật yêu?
HY Ratzinger: Người ta không phải học yêu, như học chơi đàn hay
học sử dụng máy vi tính. Mà có thể nói phải luôn học nó với từng việc một. Và
dĩ nhiên cũng học nó từ những người gương mẫu. Trước hết từ cha mẹ, là gương
sáng và là người lãnh đạo, mà ta coi như là những vị đã thành nhân. Sau nữa,
học qua những cuộc gặp gỡ trong đời. Học nơi tình bạn, nơi công tác nối tôi với
kẻ khác, nơi một nhiệm vụ. Điều quan trọng là không phải đi tìm chính mình qua
những quan hệ và việc làm đó, mà là để tìm ra con đường cho đi, và nhờ đó biết
nhận vào một cách đúng đắn.
Phần tôi, tôi không muốn tự xét đoán mình, nhưng tôi cố bằng
mọi cách học yêu qua hình ảnh đức Ki-tô và các thánh. Nói cách khiêm nhường
hơn, là học lấy sự nhân ái nơi các ngài và cố bước theo và làm theo các ngài.
Còn việc tôi thật sự học được tới mức nào, thì để cho Chúa và cho người ta phán
xét.
Peter Seewald: Người ta
đôi khi có thể lầm. Tôi không quên được hình ảnh mà tôi đã một lần viết về
ngài. Trong bài viết tôi lặp lại điều của văn sĩ Stefan Andres. Andres viết
trong một chuyện ngắn về một đại quan thẩm tra – hoạ sĩ tài danh El Greco đã
hoạ lại hình ảnh đại quan đó - như sau: “Ông ta không dính dáng gì tới tình yêu
cả”.
Vâng, một vai trò như tôi người ngoài có thể nhìn thấy như
vậy. Dù sao, chúng tôi đã cố dùng tình yêu để đối xử với người khác trong những
hoàn cảnh có thể nói là khó khăn. Tình yêu đó, dĩ nhiên, không phải chỉ là ve
vãn nhau, nhưng nó cũng đặt ra giới hạn cho chỗ nào có hại, và chỗ nào gây
phương hại tới quy luật nội tại của tình yêu. Các cộng sự viên của tôi và tôi
cố gắng đặt chính người đó vào một toàn cảnh thuận lợi, để chính người đó nhìn
ra vấn đề cần giải quyết. Không phải chúng tôi đơn giản muốn gấp rút khai trừ
họ, nhưng muốn phục vụ cả toàn cộng đoàn và trong đó rốt cuộc cũng có cả họ
nữa. Và chúng tôi cảm thấy bó buộc phải bảo vệ đức tin của những người bé nhỏ.
Vừa rồi, một giám mục danh tiếng kể cho tôi hay, ông đã thấy một trong những
người nổi tiếng ở Á châu chống lại Bộ tín lý đức tin tỏ ra cao ngạo quá mức, và
thái độ đó đã dẫm đạp lên đức tin của những người bé nhỏ như thế nào. Qua đó,
cũng theo giám mục, tôi mới thấy công tác bảo vệ đức tin cho kẻ thấp cổ bé
miệng chống lại sự cao ngạo thật quan trọng.
Peter Seewald: Lời Chúa
dĩ nhiên không chỉ được khuôn đúc theo chức vụ, mà còn có thể bị chính người
giữ chức vụ làm phai mờ.
HY Ratzinger: Đúng, nguy hiểm đó đương nhiên có. Ta chỉ có thể
luôn nỗ lực sửa sai và đừng để nguy hiểm đó đè bẹp mình.
Peter Seewald: Một vấn đề
gặp phải trong vấn đề yêu, là con người ta trước hết chỉ nghĩ tới cách làm sao
để được yêu, chứ ít khi làm sao để yêu.
HY Ratzinger: Với cái nhìn như thế thì bản chất tình yêu kể như
tiêu. Nếu ta chỉ muốn có được tình yêu mà thôi, thì chắc
chắn ta sẽ không nhận được nó, nó sẽ trở nên ích kỉ, thoái hoá, và người khác
hẳn cũng nhìn ra được điều đó. Con đường học yêu cũng có nghĩa là vượt thắng
mình, từ bỏ mình, học cách trao tặng mình, kể cả khi mình chẳng mong nhận lại
được đáp trả nào. Nhất là học cách quên mình cho những người khó thương đối với
mình, và cho những người đau khổ đang cần đến mình. Ta hãy nghĩ tới người
Samarita. Ta chỉ trở thành kẻ yêu, khi ta không phải lúc nào cũng chỉ nghĩ tới
việc thu vén cho mình, mà là lúc ta nỗ lực trở thành kẻ cho đi, kẻ luôn nhìn ra
được người bị bỏ rơi không ai đoái hoài, có thể là vì con người đó chẳng có
chút thiện cảm nào.
CÁC BỘ MẶT CỦA TÌNH YÊU
Peter Seewald: Erich
Fromm nói, lãnh vực quan trọng nhất để cho đi không phải là lãnh vực vật chất.
Một người cho kẻ khác nhiều nhất, khi người đó cho chính họ, nghĩa là cho đi
cái quý giá nhất mà họ có, cho đi cuộc sống của mình. Người đó cho đi niềm vui,
sở thích, sự cảm thông, sự hiểu biết của mình, và dĩ nhiên cả cái hài hước lẫn
u sầu của mình – nghĩa là tất cả những gì tạo sống động nơi người đó.
HY Ratzinger: Cho, trước hết, không hẳn là cho tiền, điều đó
hiển nhiên. Dĩ nhiên người ta có thể rất cần tiền. Nhưng nơi đâu chỉ cho tiền,
nơi đó người ta cũng thường gặp cảnh bị xúc phạm. Tôi luôn chứng kiến điều đó
nơi thế giới đệ tam. Họ nói với một nhân vật rằng, nếu các anh chỉ gởi cho
chúng tôi tiền mà thôi, thì thường các anh làm hư chúng tôi nhiều hơn giúp
chúng tôi.
Tiền thường hay bị lạm dụng và thường khiến cho tình trạng
gia trọng thêm. Các anh nên cho thêm gì khác. Chính các anh nên tới, các anh
nên cho chính các anh, có như thế vật chất mà các anh giúp mới được dùng đúng
chỗ, chúng mới không phải là những cái các anh móc túi vứt ra, để tìm cách xí
xoá đi những vấn nạn mà chúng tôi đặt ra cho các anh, và những vấn nạn của các
anh.
Bao lâu chúng ta chỉ cho tiền và kiến thức, chúng ta chỉ mới
cho rất ít. Hiểu như thế thì các nhà truyền giáo là những tấm gương. Họ đã mang
Thiên Chúa tới cho người khác. Họ đã làm cho tình yêu trở nên đáng tin. Họ đã
trao tặng một con đường sống mới. Họ đã cho chính bản thân họ, không phải chỉ
có hai, ba năm mà thôi, không phải vì máu phiêu lưu, mà hiến cả thân mình để đến
chung sống, làm một với người. Bao lâu ta chưa học lại được khả năng hiến thân
đó, thì cái cho của ta còn quá ít.
Điều đúng trên bình diện thế giới, tất nhiên cũng đúng nơi
mỗi cá nhân. Về điểm này, thi sĩ Rilke* có câu thuyện hay. Ông kể, lúc ở Paris,
mỗi ngày khi đi ngang qua người đàn bà ăn xin, ông đều thẩy vào mũ bà ấy một
đồng tiền. Mỗi lần như thế, ông để ý thấy nét mặt chị ta vẫn bất động, xem ra
như chị ấy mất trí. Một ngày nọ, thay vì đồng tiền, ông đưa cho chị một bông
hồng. Mặt chị bỗng rạng lên. Lần đầu tiên ông thấy cảm xúc nơi chị. Chị mỉm
cười rồi biến mất suốt tám ngày, bởi vì chị đã nhận được cái gì còn hơn tiền.
Tôi tin, đó là một hình ảnh cho ta thấy rằng đôi khi chỉ một
bông hồng, một cử chỉ quan tâm, một niềm nở đón nhận người khác còn đáng giá
hơn tiền bạc hay những món quà vật chất khác.
Peter Seewald: Lề luật mới của
đấng Cứu thế là Tin Mừng tình yêu. Như vậy phải chăng có thể nói được rằng Giao
ước cũ đã mất hết sức sống; phụng vụ, của lễ và lối hiểu về đời sống cộng đoàn
của nó kể như chấm dứt? Bởi vì rõ ràng nay là thời điểm để khởi sự một cái gì
mới. Malakia, vị tiên tri cuối cùng của Giao ước cũ, đã tuyên bố: „Thiên Chúa
của các đạo binh nói: Ta không còn thú vị gì với các ngươi nữa và sẽ chẳng nhận
lễ vật nào nữa từ tay các ngươi“.
HY Ratzinger: Tôi không muốn nói rằng Giao ước cũ đã kiệt sức.
Người Do-thái vẫn còn sống với nó và vẫn còn luôn rút ra được từ Cựu Ước kho
tàng tinh thần lớn. Nhưng, là người công giáo, chúng ta bảo rằng Giao ước đó
đang trên đường, và nó đang tiến dần về tới đích, bởi vì nếu không có đích, thì
con đường kia chẳng có nghĩa gì. Như vậy, không thể cắt đứt hoặc bỏ đi cái cũ,
vì coi như nó đã hết xài, nhưng đó là một con đường đang tiến về đích của nó.
Không có đường thì ta không thể tới đích được.
Những phê bình liên quan tới của lễ đã có trong Cựu Ước ngay
từ đầu. Thiên Chúa nói với con người trong các Thánh Vịnh: Ta sẽ không nói cho
ngươi hay Ta muốn ăn gì; những của lễ thú vật và lễ vật hoả thiêu của ngươi là
những thứ Ta không cần, Ta cần trái tim cơ.
Của lễ cũng luôn nói lên cố gắng của con người trong việc
công nhận quyền cai trị của Chúa, và ít ra, chúng tỏ dấu cho thấy con người
muốn dâng cho Chúa một cái gì của chính họ. Đồng thời, một cách nào đó, họ cũng
biết Chúa chẳng màng gì tới thú vật hoặc bê thiêu. Trong ý nghĩa đó, các hành
vi thờ cúng trong Cựu Ước đã nhập làm một với lễ vật đích thực, là đức Ki-tô,
kẻ đã hiến thân cho ta và trao ta cho Cha Ngài, là kẻ có thể nói, đã khởi sự
dùng tình yêu để biến đổi thế giới. Tình yêu mới là lễ vật đích thật. Nó thay
thế cử chỉ vô vọng nơi của lễ thú vật và làm cho những của lễ đó thành vô nghĩa.
Vì thế, cũng chẳng phải là một việc tình cờ, khi 40 năm sau
cái chết của đức Ki-tô, Đền thờ đã biến mất khỏi lịch sử, là vì mục tiêu của
Đền thờ giờ đây đã được hiện thực (qua đức Ki-tô) rồi.
Peter Seewald: Thiên Chúa
gởi Con Ngài xuống trần là vì tình yêu đối với con người – hay chỉ vì thương xót
họ?
HY Ratzinger: Tôi không cho rằng lòng thương xót vả tình yêu là
hai thứ đối nghịch nhau. Lòng thương xót đích thực nhiều hơn là một sự xúc cảm đơn
thuần. Nó là một sự đồng cảm với nỗi đau của kẻ khác, và như vậy nó là một hành
động cơ bản của tình yêu.
Người Hy Lạp xưa quan niệm Thiên Chúa bất biến, như vậy họ
coi Ngài là tinh thần thuần tuý, không thể cảm giác và càng không biết đau đớn.
Vì thế ki-tô hữu đã phải tự hỏi, vậy thì Thiên Chúa thật sự ra sao? Và Origenes*
đã nói một câu thật hay: Thiên Chúa quả thật không đau khổ, nhưng Ngài có khả năng
cùng đau. Nghĩa là Ngài có thể đồng hoá với ta, với những kẻ đau khổ. Quả là
một hành vi yêu thương lớn, khi Thiên Chúa đã đi vào thân xác con người trong
đức Ki-tô để đồng hóa với ta – và như vậy Ngài đồng hoá ta với Ngài và đưa ta
vào trong tình yêu của Ngài. Tôi nghĩ, chính khi ki-tô hữu chống lại quan điểm
vô cảm hoàn toàn của phái khắc kỷ và đề cao sức mạnh của lòng thương xót, thì
đó cũng là lúc họ tuyên xưng tình yêu. Thương xót đúng ý nghiã là một hành động
yêu thương.
..................................
Trích từ: Joseph Ratzinger - Biển-đức XVI., „Thiên Chúa và Trần Thế - Tin và Sống trong
thời đại ngày nay. Trao đổi với Peter Seewald“. Phạm Hồng-Lam chuyển ra
Việt Ngữ. Nguyên tác Đức Ngữ: „Gott und
die Welt – Glauben und Leben in unserer Zeit“