Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thành lập không bao lâu (1960) thì Công đồng Vatican II được cử hành (1962 [1]). Hội Thánh Việt Nam đã mở rộng cửa mà đón lấy luồng gió mới của một Công đồng được mệnh danh “Công đồng của Kinh Thánh”. Ðây là nhận định của Ðức Cha John Onaiyekan[2], Tổng Giám Mục Abuja, Nigeria, trình bày tại Hội nghị Kinh Thánh Quốc tế tại Rôma, từ ngày 14-9-2005 đến 18-9-2005, do Hội Ðồng Giáo Hoàng cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu và Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng tổ chức, để đánh dấu 40 năm Công đồng Vatican II công bố Hiến chế tín lý về Mặc Khải Dei Verbum.
Thế rồi, trải dài 4 năm qua các Khoá họp của Công đồng,
trước khi bế mạc, Ðức Phaolô VI cùng các Nghị phụ Công đồng đã long trọng công
bố Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum vào ngày 18-11-1965. Ðức
Hồng Y Walter Kasper nhận định: “Tiếng
sấm sét buổi ban đầu” nhường chỗ cho bầu khí hân hoan, an bình, vui
mừng và hy vọng, khi Công đồng lên tiếng khai mở Hiến chế Dei Verbum:
“Trong niềm thành kính
lắng nghe và tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa, Thánh Công đồng lặp lại lời
Thánh Gioan: Chúng tôi loan truyền cho anh em sự sống đời đời, đã có nơi Chúa
Cha và đã hiện đến với chúng tôi: điều chúng tôi đã thấy, đã nghe, chúng tôi
loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp nhất với chúng tôi và chúng
tôi hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô, Con Ngài (1 Ga 1,2-3)” (Dei
Verbum religiose audiens et fidenter proclamans, Sacrosancta Synodus.) (MK 1).
Lắng nghe với thái độ thành kính, vì Lời Thiên Chúa là Lời hằng sống; tin tưởng
công bố Lời Thiên Chúa, vì đây là sứ điệp cứu độ.
Nếu ơn gọi và sứ mạng
của Hội Thánh là “lắng nghe Lời Thiên Chúa trong niềm thành kính” và “tin
tưởng công bố Lời Thiên Chúa”, thì ơn gọi và sứ mạng của Hội Thánh Việt Nam
cũng không thể khác. Cùng với Hội Thánh toàn cầu, là Dân Thiên Chúa, Hội Thánh
Việt Nam thể hiện đúng ơn gọi của mình, khi “thành kính lắng nghe Lời
Thiên Chúa”; và càng thành kính lắng nghe, thì mới “tin tưởng công bố Lời Thiên
Chúa”.
1. Hội Thánh Việt Nam trong
lòng Giáo Hội toàn cầu trước Công đồng
Ðức Hồng Y Carlo Maria Martini, SJ, nguyên Tổng Giám Mục
Milano, nguyên Viện trưởng, Giáo sư tại Giáo Hoàng Học Viện Kinh Thánh
(Biblicum) ở Rôma, và là bậc thầy nổi tiếng về Kinh Thánh trên thế giới, đã
trích một nhận xét của Paul Claudel nói về người tín hữu trong Hội Thánh cho
đến đầu thế kỷ thứ XX: “Họ đã có một sự tôn kính Kinh Thánh cho đến độ họ sống
xa cách Lời Chúa”[4]; người Việt Nam chúng ta thường gọi là thái độ “kính nhi
viễn chi”. Lời nhận định này có vẻ thái quá, nhưng thể hiện khá đúng thực trạng
của người tín hữu Kitô, cách riêng là hàng ngũ giáo dân. Ngay bên xã hội Tây
Phương, một xã hội có gốc rễ là Kitô giáo, thì cũng phải nhìn nhận rằng, một
trong những rào cản là tình trạng mù chữ của đại đa số dân chúng, mãi cho đến
thế kỷ XVIII; thêm vào đó, thái độ của thẩm quyền trong Giáo Hội không muốn cho
người giáo dân đọc Kinh Thánh!
Thái độ này hình như phát xuất từ phản ứng chống lại Phong
trào cải cách của Thệ phản, cũng như chống lại một số trào lưu từ thời Trung Cổ
là những phong trào khuyến khích giáo dân tiếp xúc nhiều hơn với Kinh Thánh
nhằm mục đích đẩy người giáo dân thoát ly khỏi khung cảnh đời sống nề nếp của
Giáo Hội! Thêm vào đó, một số quyết định của Giáo quyền hạn chế giáo dân tiếp
cận với Kinh Thánh như Công đồng miền Tôlêđô năm 1229, trong thời gian Giáo Hội
phải chiến đấu chống lại bè rối Albigeois; hay như một số hạn chế khác tại các
Giáo Hội ở Anh, ở Pháp, và một số nơi khác. Vào năm 1559, Ðức Thánh Cha Phaolô
IV, và vào năm 1564, Ðức Thánh Cha Piô IV đã công bố danh sách liệt kê một số
sách bị cấm lưu hành (Index), thì các ngài cũng cấm in ấn và lưu giữ những sách
Kinh Thánh được dịch ra tiếng bản xứ, ngoại trừ có phép đặc biệt.
Như vậy, hàng ngũ giáo dân thời bấy giờ chắc chắn không thể
tiếp xúc với Kinh Thánh trong ngôn ngữ địa phương. Thời gian ấy, chỉ có bản văn
Kinh Thánh bằng tiếng La-tinh (Bản Vulgata = Bản Phổ thông) được phép lưu hành
mà thôi. Ngay tại nước Italia, phải chờ đến năm 1700, mới có bản dịch Kinh
Thánh ra tiếng Ý của Antonio Martini để phổ biến cho người công giáo. Ðến năm
1757, tại Italia, mới có phép của Giáo quyền để dịch bản La-tinh Vulgata ra
tiếng bản xứ; và phải được Giáo quyền chuẩn ấn (Imprimatur), cùng phải kèm theo
những ghi chú, giải thích cụ thể. Mãi đến đầu thế kỷ XX, tại nước Italia, mới
xuất hiện những bản dịch Kinh Thánh từ nguyên bản Do-thái, Hy-lạp, do những
người Công giáo thực hiện. Thế mà tại Việt Nam chúng ta, trước khi Dei
Verbum ra đời, đã có hai bản dịch Kinh Thánh trọn bộ do các tác giả công
giáo thực hiện; đó là bản dịch Kinh Thánh của Cố Chính Linh, xuất bản năm 1913
và bản phỏng dịch Kinh Thánh của Cha Gérard Gagnon CSsR, vào năm 1963. Ðấy cũng
là những điểm son đáng ghi nhận.
Ở đây, chúng ta còn phải gợi lên một sự kiện này - dầu không
nói ra, nhưng vẫn ảnh hưởng đến những sinh hoạt trong Giáo Hội cách chung trước
Công đồng Vatican II - đó là bầu khí và tâm lý lo sợ, dè dặt đối với các Phong
trào cổ võ học Kinh Thánh. Biết bao nhiêu học giả tiên phong trong lãnh vực
này, đặc biệt từ khoảng thời gian sau Ðệ nhất thế chiến 1914-1918; họ ước mong
Kinh Thánh không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ hay những hạng ưu tú, mà
phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi thành phần Dân Chúa: “Lời Chúa phải
được loan báo cho những người nghèo hèn”. Họ muốn tạo điều kiện cho người tín
hữu trực tiếp đọc Lời Thiên Chúa được dịch ra từ các nguyên bản; họ ước mong
người tín hữu có thể cầu nguyện với quyển Kinh Thánh; họ muốn người tín hữu trở
về nguồn, như thời Giáo Hội sơ khai. Một trong những câu nói rất thời danh của
Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu như thúc đẩy và gợi nguồn cảm hứng cho nhiều học
giả trong lãnh vực này. Ngài nói: “Nếu
tôi là linh mục, tôi sẽ học tiếng Do-thái và tiếng Hy-lạp, để có thể đọc được
Lời Thiên Chúa trong chính nguyên bản”.
2. Lời kinh, tinh hoa
của Lời Chúa
Thế nhưng tại Việt Nam, trước khi nói đến việc đọc trực tiếp
các bản văn thánh, chúng ta nên ghi nhận một hiện tượng đặc biệt đã giúp các
Kitô hữu Việt Nam sống Lời Chúa cách đơn giản, nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Vào thời gian đất nước chúng ta còn bị chia đôi thành hai
quốc gia của những anh em thù nghịch (thờt Trịnh-Nguyễn phân tranh), để rồi rơi
vào một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt, chính Lời Chúa đã mang
lại một an ủi lớn lao cho các tín hữu. Trong thực tế, Lời Chúa vẫn luôn đóng
vai trò nâng đỡ đời sống luân lý và thiêng liêng của Hội Thánh tại Việt Nam,
một trong những Hội Thánh bị thử thách nhất do các cuộc bách hại đẫm máu và
những giới hạn kỳ thị. Giáo dân Việt Nam đã tiếp xúc với Kinh Thánh
không qua phụng vụ, vì vào lúc đó, các cuộc cử hành phụng vụ hoàn toàn được
thực hiện bằng tiếng La-tinh, mà là qua á phụng vụ và các sáng tạo văn chương.
Ðây là những suy gẫm cộng đồng về các mầu nhiệm Kitô giáo,
về cuộc đời của Ðức Kitô và của Ðức Trinh Nữ Maria, nhất là về mầu nhiệm Giáng
Sinh và cuộc Thương Khó của Chúa; đây là những đề tài không bao giờ cạn không
phải chỉ cho những buổi suy gẫm nhằm cầu nguyện, nhưng cho cả các cuộc trình
diễn dân gian và các sáng tác thi ca và nghệ thuật. Một bà hoàng có vị trí và
văn hoá cao, được cha Alexandre de Rhodes rửa tội tại miền Bắc năm 1627, đã
sáng tác trọn giáo lý công giáo ra văn vần, khởi đi từ cuộc sáng tạo thế giới
cho tới cái chết và cuộc sống lại của Ðức Kitô, với một phụ lục về việc các nhà
thừa sai Dòng Tên đến[5].
Một linh mục thuộc Nam bộ do Ðức Cha Lambert de la Motte truyền chức vào năm
1676 đã thực hiện một bản dịch đáng lưu ý từ Cựu Ước sang tiếng Việt văn chương
có phẩm chất[6]. Tất cả các công trình thơ văn này đã góp phần khá lớn vào việc
tháp nhập Lời Chúa vào trong ký ức sống động và trái tim yêu thương của các tân
tòng người Việt. Do có thêm nhiều nhà thừa sai vào thế kỷ XIX và XX và cũng do
sự trưởng thành tiệm tiến của hàng giáo sĩ địa phương và các tu sĩ bản địa, nền
văn hoá Kinh Thánh thêm phong phú nhờ có các bản dịch ngày càng đầy đủ hơn về
Kinh Thánh và nhờ việc phổ biến các bài suy gẫm Kinh Thánh. Lời Chúa dưới các
dạng á phụng vụ và Bí tích Thánh Thể một bên, việc chuyên cần lần hạt Kinh Mân
Côi, cá nhân cũng như cộng đoàn bên kia, đã nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của
biết bao thế hệ Kitô hữu, cho đến đầu thế kỷ XX thật ra chỉ là những người công
giáo. Khi không có Thánh Thể, chính Lời Chúa dười dạng cụ thể là Ðàng Thánh
Giá, Kinh Truyền Tin, và các mầu nhiệm để suy gẫm trong tràng hạt Mân
Côi, đã đưa lại sức mạnh cho các vị Tử đạo có thể đứng vững trong đức tin và
trung thành mãi đến cùng. Về phần tràng hạt Mân Côi, tràng hạt này lại không
được gọi là “toát yếu của toàn thể Tin Mừng” đó sao? Và năm mầu nhiệm sự
sáng, đã được Ðức giáo hoàng Gioan-Phaolô II cho tháp vào trong các mầu
nhiệm truyền thống, lại không làm trọn cách cốt yếu bản toát yếu cho các
tín hữu của thiên niên kỷ thứ ba đó sao?[7]
Lời Chúa đã được cô đọng lại và đi vào lòng người giáo dân
Việt Nam qua các thế hệ xuyên qua các lời Kinh truyền thống mà người
tín hữu công giáo thuộc nằm lòng. Do đó, lời Kinh chính là “tinh hoa” của Lời
Chúa trở nên như hơi thở, nhựa sống của người tín hữu. Ngắm Ðàng Thánh Giá, lần
chuỗi Mân Côi, nguyện Kinh Truyền Tin, suy ngắm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu…
đã thực sự là phương thế đem Lời Chúa vào trong nếp sống bình dân của người tín
hữu Việt Nam.
3. Hội Thánh Việt Nam sống
và phục vụ Lời Chúa dưới ánh sáng của Dei Verbum
Công đồng Vatican II, với cuộc canh tân phụng vụ và Hiến chế
tín lý về Mặc khải Dei Verbum, dưới làn hơi thổi mới của Thánh Thần, đã
gây ra một đà lao mới mẻ và một sinh lực lớn lao trong Hội Thánh tại Việt Nam,
khi được Mẹ Hội Thánh nhìn nhận là đã trưởng thành bằng cách thiết lập Hàng
giáo phẩm địa phương cho Hội Thánh tại Việt Nam vào năm 1960.
Trong Thư mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam năm 2005 với
tựa đề “Sống Lời Chúa”, tại số 8, nói về việc tăng cường vai trò ưu tiên của
Kinh Thánh, các Ðức Giám Mục của chúng ta đã nhận định: “Yêu mến Kinh Thánh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Kinh
Thánh, mà còn là siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể
của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm
hướng đi cho cuộc đời”. Với nhận định trên, các vị Chủ chăn cho thấy lòng
“yêu mến Kinh Thánh” là điểm son của người tín hữu chúng ta.
a) Phiên dịch và phổ
biến bản văn Kinh Thánh
Chính phát xuất từ lòng yêu mến này, mà đã có những nỗ lực
không nhỏ trong Giáo Hội Việt Nam đối với Kinh Thánh, trong đó có nỗ
lực phiên dịch và phổ biến Kinh Thánh. Ngay giữa lòng cuộc chiến huynh đệ tương
tàn của đất nước chúng ta, kéo dài cho đến năm 1975, rồi từ đó đến nay, ngoài
những bản dịch toàn bộ Kinh Thánh của Cố Chính Linh, vào năm 1913, bản phỏng
dịch của linh mục Gérard Gagnon CSsR vào năm 1963, như đã nói trên; hoặc bản
dịch một vài phần trong bộ Kinh Thánh của ông Mai Lâm Ðoàn Văn Thăng, của Linh
mục An Sơn Vị, linh mục Trần Văn Kiệm; chưa kể bản dịch của anh em Tin lành.
Trong vòng 40 năm nay, sau khi Dei Verbum ra đời,
có bốn bản dịch toàn bộ Kinh Thánh: của Linh mục Ðaminh Trần Ðức Huân, dịch từ
bản tiếng Phổ thông (La-tinh), xuất bản năm 1970; của Linh mục Giuse Nguyễn Thế
Thuấn CSsR, dịch từ nguyên bản Do-thái, Hy-lạp, A-ram, xuất bản năm l976; của
Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, xuất bản năm 1985; của Nhóm Phiên dịch „Các
Giờ Kinh Phụng Vụ“ (CGKPV), dịch từ nguyên bản tiếng Do-thái, Hy-lạp, A-ram,
xuất bản năm 1998, đặc biệt nhắm sử dụng vào việc học tập nghiên cứu.
Nỗ lực của Nhóm Phiên dịch CGKPV trong việc phiên dịch và
xuất bản, phổ biến Kinh Thánh rất đáng được trân trọng. Nhóm đã hình thành vào
năm 1971, nghĩa là 6 năm sau khi Dei Verbum ra đời; và đã kiên trì
làm việc trong lãnh vực phiên dịch và chú thích toàn bộ Kinh Thánh cho tới nay,
liên tục 38 năm miệt mài với công trình phiên dịch. Một vài thành quả phổ biến
Kinh Thánh của Nhóm này tính cho đến đầu tháng 3 năm 2009 là đã dịch và xuất
bản các sách: Ngũ Thư; Lịch sử; Ngôn sứ; Giáo huấn; Bốn Sách Tin Mừng; Ðối
chiếu Bốn Sách Tin Mừng; Kinh Thánh trọn bộ có dẫn nhập và chú thích đơn giản;
Kinh Thánh trọn bộ cỡ lớn để trưng; Tân Ước có dẫn nhập và chú thích đơn giản;
Lời Chúa trong Thánh lễ; Lời Chúa cho mọi người với dẫn nhập và chú thích của
Bernard Hurault và Louis Hurault (Kinh Thánh trọn bộ và Tân Ước); Kể chuyện
Kinh Thánh cho trẻ em (6-9 tuổi) dịch từ bản văn của Pat Alexander; Kể chuyện
Kinh Thánh cho thiếu niên (10-15 tuổi) dịch từ bản của Pat Alexander; và trong
năm 2008, Nhóm xuất bản cuốn Tân Ước với dẫn nhập và chú thích có hiệu đính[8].
Trước năm 1975, tại miền Nam Việt Nam, đã có phong trào
“mỗi quân nhân một Tân Ước”, cốt đưa Lời Chúa vào trong các gia đình binh sĩ
Công giáo; bản văn Tân Ước được dùng lúc đó là bản dịch của cha Nguyễn Thế
Thuấn. Ðến nay, người công giáo Việt Nam đã dễ dàng và trực tiếp tiếp
xúc với Kinh Thánh, nhờ đó đời sống thiêng liêng họ được nuôi dưỡng phong phú
hơn. Bản dịch của Nhóm Phiên dịch CGKPV đã được phổ biến rộng rãi, bởi vì hơn
hai triệu bản đã được xuất bản theo nhiều cách thức để tới với 6 triệu người công
giáo, nên mỗi gia đình đã có thể có được một quyển Kinh Thánh trọn bộ hoặc ít
ra một quyển Tân Ước.
b) Học hỏi và chia sẻ
Lời Chúa
Nhiều giáo dân, nhất là 52.500 giáo lý viên rải rác tại mọi
giáo xứ của đất nước, tạo thành những nhóm học hỏi và chia sẻ Lời Chúa, và ngày
càng quan tâm hơn đến việc đào tạo giáo lý và thần học. Có những thủ bản ra đời
như “Phương pháp Chia sẻ Phúc âm - Tài liệu huấn luyện các linh hoạt viên nhóm
chia sẻ” giúp đào tạo các linh hoạt viên nhóm chia sẻ theo “phương pháp
bảy bước”. Các nhóm chia sẻ Lời Chúa cũng được giúp làm quen với “phương pháp
Ðọc, Suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện” (= Lectio divina).
Ngoài các Ðại Chủng viện giáo phận vẫn cung cấp các giáo
trình tốt về Kinh Thánh cho các linh mục tương lai, Học viện Liên Dòng Phaolô
Nguyễn Văn Bình và Trung Tâm Mục Vụ TPHCM với Chương trình đào tạo giáo dân
cũng là những nơi phát hành các giáo trình Kinh Thánh với nhiều trình độ, giúp
cho anh chị em tu sĩ và giáo dân có cơ hội hiểu rõ hơn bản văn cũng như tiếp
thu được các phương pháp đọc Kinh Thánh. Sau 1975, Liên Tu Sĩ TPHCM ra đời.
Trong thời gian đầu, các bài suy niệm từ Lời Chúa do một số thành viên trong
Liên Tu Sĩ viết, đã là một lương thực quý báu cho các linh mục và tu sĩ Dòng.
Các sách soạn thảo hoặc các bản dịch các bài giảng ngày Chúa
Nhật, thậm chí các bài gợi ý cho ngày trong tuần, vẫn đang là những sách được
phổ biến nhất nhắm đến các giáo sĩ và tu sĩ. Trong khi đó, các nhà thơ và và
nhạc sĩ công giáo cũng ra sức khai thác kho tàng giàu có phong phú vô tận của Kinh
Thánh. Dĩ nhiên, đôi khi những cảm xúc dâng trào đã đưa các nhạc sĩ và thi sĩ
đến những lời kết dệt có phần xa bản văn ; nhưng điều này vẫn chứng tỏ là
Kinh Thánh đang là nguồn cảm hứng dồi dào. Chúng ta đứng trước một hiện tượng
rất thuyết phục: không những “máu của các thánh tử đạo” mà cả Lời Chúa được suy
gẫm, được chia sẻ, được ngâm nga ca hát, được sống và được loan báo, đang sản
sinh ra các Kitô hữu mới và giúp dọn các tâm hồn biết bao người trẻ thành miền
đất tốt mà đón lấy hạt giống ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Ngoài ra, Kinh Thánh cũng được các Vị Mục tử, các Dòng Tu
nam, nữ và Ðại Chủng viện quan tâm rất nhiều, không những trong việc cử hành
Phụng vụ, giảng dạy, mà còn trong việc tổ chức nhiều lớp học, khoá học về Kinh
Thánh, Khoá Thường huấn cho các Linh mục trong các Giáo phận, trong các Hội
Dòng Tu sĩ.
c) Sống Lời Chúa
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận như điều các Ðức Giám Mục đã
nói trong lá Thư Mục vụ 2005: “Nhìn
chung, Kitô hữu Việt Nam còn chưa thực sự chú trọng đến việc đọc Kinh Thánh. Có
thể nói, chúng ta rất siêng năng đọc kinh, nhưng còn chưa chú trọng đến việc
đọc và suy niệm Lời Chúa. Kinh Thánh chưa có chỗ đứng xứng đáng trong các sinh
hoạt đạo đức, nhất là trong đời sống gia đình”.
Chúng ta chân thành cám ơn các Ðức Cha đã chỉ rõ cho thấy
những gì chúng ta cần phải chú tâm hơn trong việc tăng cường vai trò ưu tiên
của Kinh Thánh trong các sinh hoạt đạo đức và nhất là trong đời sống gia đình
của người tín hữu Việt Nam. Chúng ta không biện minh cho những giới hạn và
thiếu sót của mình trong quá khứ, đối với thao thức và lời dạy của Công đồng
trong Hiến chế Dei Verbum.
Nhưng dầu sao, hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội Việt Nam 50
năm qua quả có nhiều điều để nói. Một nửa Giáo Hội chúng ta trong suốt thời
gian diễn ra Công đồng, đã không có điều kiện khách quan để đón nhận những chỉ
dẫn và soi sáng của Công đồng, nói chi đến việc tiếp cận với Dei Verbum!
Do hoàn cảnh, có thể nói, mọi nỗ lực chủ yếu là để giữ đạo và tồn tại. Rồi, từ
khi hai miền Giáo Hội hiệp nhất với nhau, cũng lại những nỗ lực chủ yếu là để
giữ đạo và tồn tại, kéo dài một thời gian khá lâu. Có chăng một số thao thức,
cố gắng và thực hiện trong những khả năng rất giới hạn của mình, để có thể làm
một cái gì đó trong việc phiên dịch, phổ biến Kinh Thánh, tìm đọc và học hỏi,
chia sẻ Lời Chúa, v.v. như vừa nêu ở trên.
Do đó, trong vòng 50 năm qua, không biết có nơi nào đã triển
khai, chứ chưa dám nói tới việc đào sâu Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei
Verbum! Cũng chưa có những tổ chức cụ thể và có thẩm quyền trong việc
“aggiornamento” (cập nhật) các kiến thức từ các Hội nghị, phong trào quốc tế
rất phong phú của Giáo Hội toàn cầu, cũng như của các Học viện Kinh Thánh, nhằm
thúc đẩy việc học hỏi, đào sâu Lời Chúa. Chúng ta còn rất giới hạn và chịu
nhiều thiệt thòi trong lãnh vực này, chưa có tiếng nói đóng góp đúng mức với
Giáo Hội trong nước, nói chi đến các Giáo Hội trong khu vực, và Giáo Hội toàn
cầu.
d) Lời chứng về việc
Hội Thánh Việt Nam sống Lời Chúa tại THÐGM Thế giới XII
Một hồng ân hiếm có cho Giáo Hội Việt Nam chúng ta: Ðức Cha
Giuse Võ Ðức Minh, Giám mục phó Giáo phận Nha Trang, và Ðức Cha Giuse Nguyễn
Chí Linh, Giám mục Giáo phận Thanh Hoá là những đại biểu của Giáo Hội Việt Nam,
cùng với Cha Vinhsơn Nguyễn Văn Bản (đã được bổ nhiệm làm Giám mục Chánh toà
Ban Mê Thuột) được chính thức tham dự Thượng Hội Ðồng giám mục thế giới lần thứ
XII vừa qua tại Rôma, họp từ ngày 5 đến 26 tháng 10 năm 2008. Khoá họp đã quy
tụ 253 Nghị phụ, được tuyển chọn từ các đại biểu của Toà Thánh, của các Hội
Ðồng Giám Mục thế giới, các đại diện Bề trên thượng cấp các Hội Dòng, v.v., quy
tụ quanh Ðức Giáo Hoàng để bàn về đề tài “Lời
Chúa trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh”.
Hai Ðức Cha Giuse và Cha Vinhsơn của chúng ta đã tham gia
tích cực trong các phiên họp khoáng đại cũng như những buổi thảo luận ở tổ; các
ngài đã có những đóng góp ý kiến, những bài phát biểu thay mặt cho Giáo Hội
Việt Nam về những đề tài liên quan đến “Lời
Chúa là nguồn an ủi, là sức mạnh, là ánh sáng, là nguồn hy vọng cho đời sống và
sứ vụ của Dân Chúa tại Việt Nam”. Ðặc biệt, Ðức Cha Giuse Võ Ðức Minh còn
được Ban tổ chức Thượng Hội Ðồng mời chia sẻ Lời Chúa trong bài giảng ngày
7-10-2008 liền sau bài giảng của Ðức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI ngày 6-10-2008.
4. Một chút lịch sử: Hội đồng Giám mục
Việt Nam và trách nhiệm phổ biến Kinh Thánh
Một điều hiển nhiên, đó là các vị chủ chăn trong Hội Thánh
Việt Nam rất chú tâm đến việc giúp cho con cái đọc và hiểu được Kinh Thánh. Do
đó, trong thời gian vừa qua, làm được gì là Hội Ðồng Giám Mục sẵn sàng làm để
Lời Chúa ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn.
a) Quan hệ với
Liên Hiệp Kinh Thánh Công Giáo (LHKTCG) trước 2002
Một trong những cơ quan mà chúng ta cần tháp nhập vào, đó là
Liên Hiệp Kinh Thánh Công Giáo (Catholic Biblical Federation “CBF”), vì cơ quan
này hỗ trợ chiều hướng mục vụ Kinh Thánh, giúp các thành viên trên thế giới phổ
biến Lời Chúa có phương pháp. Vào ngày 28/11/1995, LHKTCG đã gửi Chứng chỉ
công nhận HÐGMVN là thành viên chính thức của LHKTCG; Nhóm Phiên Dịch Các
Giờ Kinh Phụng Vụ là thành viên liên kết. Lúc đầu, Ðức Cha Phêrô Nguyễn
Văn Nho, Giám Mục Phó Nha Trang, là người liên lạc (contact person) với LHKTCG.
Sau này, sau khi Ðức Cha Phêrô qua đời, cha Giuse Nguyễn Công Ðoan, SJ, thay
thế ngài trong nhiệm vụ liên lạc với LHKTCG.
Vào năm 2002, Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc và cha Giuse Nguyễn
Công Ðoan, SJ, đã tham dự Ðại Hội LHKTCG lần IV tại Liban từ 03-12/9,
với chủ đề: “Lời Chúa: một phúc lành cho mọi dân tộc” - Mục vụ Kinh Thánh trong
một thế giới đa dạng.
b) Quan hệ với
Liên Hiệp Kinh Thánh Công Giáo Ðông Nam Á
Là thành viên của LHKTCG thế giới, đương nhiên chúng ta cũng
sinh họat với LHKTCG Ðông Nam Á. Cụ thể là:
Ngày 14-18/2/2005, Ðại Hội Kinh Thánh châu Á và châu
Đại Dương lần IV, tại Tagatay City, Philippines. Chủ đề: Lời Chúa: niềm hy vọng
sống động và hoà bình bền vững. Ðại diện HÐGMVN đi tham dự là ÐC Phaolô Nguyễn
Văn Hoà, ÐC Phaolô Bùi Văn Ðọc và cha PX Vũ Phan Long, OFM; đại diện Nhóm Phiên
dịch CGKPV là cha Giuse Trần Hoà Hưng, SDB.
Ngày 19-21/2/2005, Hội Thảo ÐNA về việc Tông đồ Kinh
Thánh lần IV, cũng tại địa điểm trên. Chủ đề: Ðáp trả các thách đố về Hoà bình
trong thế giới hiện đại. Cha PX Vũ Phan Long và cha Giuse Trần Hoà Hưng, SDB,
tham dự.
c) Sinh hoạt của
Tổ Mục vụ Kinh Thánh (MVKT) 2002 và Ủy Ban Kinh Thánh(UBKT)
Trong kỳ Ðại Hội 2002, HÐGMVN đã thành lập Ủy Ban Giáo lý
Ðức tin trực thuộc HÐGMVN, chọn Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc làm Chủ tịch. Ngày
21/6/2002, UBGLÐT, với Ðức Cha Chủ tịch, đã có buổi họp đầu tiên để xác định
phương hướng.
Ngày 12/12/2002, trong lần họp tiếp theo, UBGLÐT đã thành
lập Tổ MVKT và đề nghị cha FX Vũ Phan Long, OFM, làm tổ trưởng, cha
Phêrô Nguyễn Văn Võ (ÐCV Giuse TpHCM) làm phó. Cha Ðoan SJ đã đi sang Rôma để
làm công tác của Nhà Dòng, nay cha FX Long thay mặt HÐGMVN để liên lạc với
LHKTCG. Kỳ họp này cũng xác định trách nhiệm của Tổ MVKT: Nghiên cứu để có thể
trình bày Lời Chúa dưới nhiều góc cạnh khác nhau trong lãnh vực mục vụ. Vào lúc
này, UB lưu ý: Dùng bản dịch Kinh Thánh nào cũng được, vì HÐGMVN chưa có bản
dịch chính thức; chỉ yêu cầu dùng Bản dịch được HÐGMVN phê chuẩn để đọc trong
Phụng vụ (lúc này chưa có).
Ngày 30/9/2003, Ðức Cha Chủ tịch UBGLÐT gặp các anh chị em
làm công việc phổ biến Lời Chúa, để thảo luận về các lãnh vực mà Tổ MVKT có thể
dấn thân vào: nói chung, Tổ cần suy nghĩ để vận dụng mọi phương tiện có thể
(sách vở, website, phim ảnh) để phổ biến Lời Chúa.
Ngày 15-16/3/2006, Tổ MVKT phối hợp với Học viện Mục Vụ của
Giáo phận TpHCM tổ chức hai ngày sinh hoạt về MVKT với chủ đề: “Lời Chúa với
Dân Chúa”. Ðức Cha Chủ tịch HÐGMVN, Ðức Cha Chủ tịch UBGLÐT, Ðức Cha Giuse,
Giám mục phó Nha Trang, một số Ðức Cha, và đông đảo đại diện các nhóm trẻ các
giáo phận về tham dự. Có các bài thuyết trình và các giờ thảo luận tổ. Hai ngày
sinh hoạt kết thúc bằng thánh lễ “sai đi” tối 16/3/2006.
Ngày 30/9/2006, một nhóm anh chị em đã gặp nhau để trao đổi
về những việc có thể làm. Ngày 04/11/2006, anh chị em của Tổ gặp nhau để phân
công viết bài về Tin Mừng Luca trong Năm sống Thư Mục vụ của HÐGMVN, “Sống đạo
hôm nay”. Anh chị em đã viết được mấy bài đầu; sau đó, một phần vì anh chị em
bận quá nhiều việc, phần vì có Ðức Cha chủ tịch mới, nên muốn chờ xem ngài phác
thảo ra chương trình sinh hoạt thế nào, nên đã ngưng viết.
Ngày 03/12/2006, trang web của Tổ MVKT được chính thức đưa
vào hoạt động: www.kinhthanhvn.org.
Các bài suy niệm Lời Chúa, các gợi ý bài giảng, một số vấn đề Kinh Thánh được
đưa lên trên trang này.
Sau Hội nghị HÐGMVN tháng 9/2006, Ðức Cha Giuse Võ Ðức Minh
được bổ nhiệm làm Chủ tịch Tiểu Ban MVKT (hiểu là “Tổ” MVKT lâu nay được trở
thành Tiểu Ban Mục Vụ Kinh Thánh, ở trong UBGLÐT.
Tại phiên họp Ban Thường Vụ (mở rộng) của HÐGMVN vào tháng
8-2007, Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc, Chủ tịch UBGLÐT và Ðức Cha Giuse Võ Ðức Minh,
Chủ tịch Tiểu Ban Mục vụ Kinh Thánh, đề nghị tách Tiểu Ban Mục vụ Kinh Thánh ra
khỏi UBGLÐT và thành lập Ủy Ban Kinh Thánh để UB mới này vừa có thể đẩy mạnh
việc học hỏi, nghiên cứu vừa phổ biến Lời Chúa rộng rãi hơn. UB Kinh Thánh đang
vừa quy tụ các chuyên viên Kinh Thánh và những anh chị em yêu thích Lời Chúa
lại để cộng tác với nhau mà phổ biến Lời Chúa vừa tận dụng các phương tiện
truyền thông mà đưa Lời Chúa đến mọi nơi và mọi tầng lớp Dân Chúa.
5. Ðịnh hướng cho
tương lai
(1) Giúp Dân Chúa tôn
kính Lời Chúa như Mình Thánh Chúa
Trong chương VI của Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei
Verbum, Công đồng Vatican II mở rộng kho tàng Lời Chúa cho mọi sinh hoạt của
Hội Thánh, cũng như cho mọi thành phần Dân Chúa trong Hội Thánh. Với tựa đề
“Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội”, ở số 21 của Dei Verbum, các Nghị phụ
đã viết như sau: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân thể Chúa,
nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn
tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu.
Cùng với Thánh Truyền, Kinh Thánh đã và đang được Giáo Hội xem như quy luật tối
cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho
muôn đời, Kinh Thánh phân phát cách bất di bất dịch lời của chính Chúa và làm
vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Ngôn Sứ cùng các Tông Ðồ. Bởi
vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính Ðạo thánh Chúa Kitô phải
được Kinh Thánh nuôi dưỡng và hướng dẫn.
Thực thế, trong các Sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất
cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có một
sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức
tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh
tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội. Bởi thế, lời nói sau đây thật xứng
hợp cho Kinh Thánh: “Thực vậy, Lời Thiên
Chúa sống động và linh nghiệm” (Dt 4, 12), “có khả năng gây dựng và ban gia tài cho mọi người đã được thánh hoá” (Cv
20, 32; 1 Tx 2, 13)”. Thật là kỳ diệu, khi Công đồng quả quyết: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính
Thân Thể của Chúa”. Tưởng không có lời tuyên xưng nào long trọng và cao quý
hơn lời này mà Công đồng dành cho Kinh Thánh. Từ lời tuyên xưng này mà nẩy sinh
ra trong lòng Giáo Hội từ ngữ “bàn tiệc Lời Chúa” bên cạnh “bàn tiệc Thánh Thể”.
Nhà thần học Lawrence Cunningham, giáo sư Thần học tại Ðại
học Notre Dame, USA, trong hội nghị với các Ðức Giám Mục Hoa Kỳ, được tổ chức
tháng 6 năm 2005, tại Ðại học Notre Dame (South Bend, Ind.), nhằm đánh dấu kỷ
niệm 40 năm Hiến chế Dei Verbum, đã có một bài thuyết trình thật đặc
sắc[9]. Ông nói: “Ðiều gây ấn tượng chớ không làm ngạc nhiên, là chương VI của
Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, thường sử dụng những hình ảnh của
ăn và dinh dưỡng khi nói về Kinh Thánh”.
Từ xưa, trong Giáo Hội, chúng ta đã quen với Mình Thánh Chúa
Giêsu như là lương thực nuôi dưỡng người tín hữu. Nay, Công đồng lại viết:
“Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn
tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu” (ex mensa tam verbi Dei quam
Corporis Christi panem vitae). Làm sao Lời Chúa trở nên “bánh ban sự sống”, trở
nên lương thực để nuôi dưỡng Dân Chúa? Công đồng chỉ rõ cho các tín hữu biết,
qua kinh nghiệm ngàn đời trong Hội Thánh, khi chuyên cần lắng nghe lời rao
giảng trong Hội Thánh đã được Kinh Thánh soi sáng và nuôi dưỡng (nutriatur),
thì Lời Chúa trở nên lương thực cho chính bản thân của mình; khi đó, Lời Chúa
không những là của ăn nuôi dưỡng linh hồn (animae cibus), mà còn là nguồn nước
tinh sạch cho đời sống thiêng liêng (vitae spriritualis fons purus). Hội Thánh,
trong tư cách là Hiền Thê của Ngôi Lời nhập thể, luôn thụ giáo với Chúa Thánh
Thần, để hiểu biết ngày càng sâu rộng hơn về Kinh Thánh, mà không ngừng thi
hành sứ mạng của người Mẹ hiền “lấy Lời Chúa nuôi dưỡng (pascat) con cái mình”.
Ðây chính là Ðề nghị 7 THÐGMTG XII trình lên Ðức
giáo hoàng: “Lời Chúa trở thành xác thịt bí tích trong biến cố Thánh Thể và đưa
Kinh Thánh tới chỗ hoàn tất. Thánh Thể là nguyên lý giải thích của Kinh Thánh,
cũng như Kinh Thánh soi sáng và giải thích mầu nhiệm Thánh Thể. Trong
chiều hướng này, các Nghị phụ ước mong rằng một suy tư thần học sẽ được cổ võ
về phương diện bí tích của Lời Chúa. Nếu không có sự nhận biết sự hiện diện
thực hữu của Chúa trong Thánh Thể, sự hiểu biết về Kinh Thánh vẫn chưa được
hoàn tất”.
(2) Giúp Dân Chúa gặp
được Chúa Giêsu Ngôi Lời, để đi đến những thay đổi đời sống
Cần phải giúp cho giáo dân gặp được chính Ðức Giêsu, Ngôi
Lời Thiên Chúa, trong Kinh Thánh, chứ không chỉ đọc Kinh Thánh như những lời kỷ
niệm vô hồn (Ðề nghị 9). Như vậy phải giúp họ cầu nguyện bằng Lời Chúa (Ðề nghị
22). Cũng cần phải giúp người tín hữu gặp được Lời Chúa như thế trong Phụng vụ
(Thánh Thể và Các Giờ kinh: Ðề nghị 14). Khi đã gặp được Ðức Giêsu là sức
mạnh giao hoà và hoán cải Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại, người tín hữu sẽ
thay đổi đời sống: “Trong những thời gian xung đột đủ loại và căng thẳng giữa
các tôn giáo, trung thành với công trình hoà giải Thiên Chúa đã thực hiện nơi
Ðức Giêsu, người công giáo dấn thân vào việc cống hiến những tấm gương về hoà
giải, bằng cách tìm cách chia sẻ những giá trị nhân bản, luân lý và tôn giáo
như nhau trong các tương quan của họ với Thiên Chúa và với người khác. Họ tìm
cách xây dựng một xã hội công bình và hoà bình”. Như thế họ chứng tỏ được rằng
Lời Chúa đã thật sự đi sâu vào đời sống họ (Ðề nghị 8).
(3) Nhấn mạnh việc
chuyên cần đọc và học hỏi Kinh Thánh
Ðể “Lời Chúa trở nên đèn rọi bước chân, ánh sáng cho nẻo
đường đi” (Tv 119, 105) của người tín hữu, Công đồng đã khuyên nhủ mọi tín
hữu chuyên cần và siêng năng đọc Lời Chúa: “Vì thế, tất cả các giáo sĩ,
trước hết là các linh mục của Chúa Kitô và những người có bổn phận phục vụ Lời
Chúa, như các Phó tế và những người dạy giáo lý, phải gắn bó với Kinh Thánh nhờ
việc chăm đọc và ân cần học hỏi, để khi họ truyền đạt kho tàng bao la của Lời
Chúa, nhất là trong Phụng vụ thánh, cho các giáo hữu được ủy thác cho họ, không
ai trong họ sẽ trở thành “kẻ huênh hoang
rao giảng Lời Thiên Chúa ngoài môi miệng bởi không lắng nghe Lời Thiên Chúa
trong lòng”. Thánh Công Đồng cũng tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô
hữu, cách riêng các tu sĩ, hãy năng đọc Kinh Thánh để học biết “khoa học siêu
việt của Chúa Kitô” (Pl 3, 8). Vì “không
biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”.
Việc năng đọc Kinh Thánh, trong truyền thống ngàn đời
của Giáo Hội - trước kia đặc biệt dành riêng cho các Ðan viện - được gọi là Lectio
divina (việc đọc sách Kinh Thánh). Ðức Hồng Y Carlo Maria Martini, SJ, qua
kinh nghiệm bản thân là nhà nghiên cứu, là bậc thầy nổi tiếng về Kinh Thánh và
là mục tử sáng chói ở Giáo phận Milano trong nhiều thập kỷ vừa qua, chia sẻ cho
chúng ta phương pháp của ngài về việc đọc sách thánh cho hữu ích qua 3 quá
trình: lectio, meditatio, contemplatio (đọc, suy gẫm, chiêm niệm). Ðây là Ðề
nghị 9 của Thượng HÐGM XII.
Song song với việc chuyên đọc và học hỏi Kinh Thánh của người
tín hữu, cần có sự trợ giúp của các mục tử trong việc đào tạo Kinh Thánh cho
người giáo dân. Ðề nghị 33 của THÐGM XII nói rằng: “Rất nên ao ước là trong mỗi miền văn hoá
được thiết lập những trung tâm đào tạo Lời Chúa cho các giáo dân và các nhà
thừa sai, tại đó, người ta học để hiểu biết, để sống và loan báo Lời Chúa.
Ngoài ra, tùy theo các nhu cầu khác nhau, phải thiết lập các học viện chuyên
môn về nghiên cứu Kinh Thánh cho các nhà chú giải, để họ có một sự hiểu biết
thần học vững chắc và họ nhạy cảm với các bối cảnh của sứ mạng của họ. Ðiều này
cũng có thể thực hiện được bằng cách cứu xét lại hoặc củng cố các cơ cấu hiện
có, như các chủng viện hoặc các phân khoa. Cuối cùng, cần phải cung cấp một nền
đào tạo tương hợp về các ngôn ngữ Kinh Thánh, cho những người sẽ dịch Kinh
Thánh ra các ngôn ngữ hiện đại khác nhau”.
(4) Cung cấp những
bản dịch tốt bằng ngôn ngữ bản xứ
Thật vậy, Công đồng đã nêu ra một nguyên lý vững vàng: “Mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như
chính Ðạo thánh Chúa Kitô phải được Kinh Thánh nuôi dưỡng và hướng dẫn” (MK 21).
Chính vì thế, Công đồng long trọng tuyên bố: “Phải mở rộng lối vào Kinh
Thánh cho các Kitô hữu” (MK 22).
Do đó, cần tạo điều kiện cho các tín hữu tiếp cận với Lời Chúa trong Kinh
Thánh, lý tưởng nhất là trong chính nguyên bản, được viết bằng tiếng Do-thái và
A-ram (bộ sách Cựu Ước) và bằng tiếng Hy-lạp (bộ sách Tân Ước); trên thực tế,
cần tạo điều kiện để có những bản phiên dịch tốt, có chất lượng ra
tiếng bản xứ, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Giải thích điều này, chính Công đồng
đã nói rõ: “Chính vì thế mà từ buổi đầu,
Giáo Hội đã công nhận như của riêng mình bản dịch Cựu Ước bằng tiếng Hy-lạp,
một bản văn rất cổ và được gọi là bản Bảy Mươi. Ngoài ra Giáo Hội luôn coi
trọng các bản dịch của Ðông Phương hay các bản dịch latinh, nhất là bản thường
gọi là bản “Phổ thông”.
Vì phải đem Lời Chúa đến cho mọi thời đại, Giáo Hội như một
người mẹ ân cần lo liệu cho các sách thánh được dịch ra các thứ tiếng cách
thích hợp và đúng đắn, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Mọi Kitô hữu có thể sử dụng
những bản dịch được thực hiện chung với cả những anh em ly khai trong trường
hợp thuận tiện và được Giáo quyền chấp thuận” (MK 22). Dịch Kinh
Thánh ra tiếng bản xứ, mới chỉ là bước khởi đầu, lối vào Kinh Thánh cho các
Kitô hữu còn cần phải có các môn học chuyên về Kinh Thánh, thường được gọi
là dẫn nhập vào Kinh Thánh, chú giải Kinh Thánh, v.v. Học Viện Kinh Thánh Giáo
Hoàng ở Rôma đã được Ðức Thánh Cha Piô X thiết lập vào năm 1909, mục đích đào
tạo những chuyên viên về Kinh Thánh trong Hội Thánh; rồi nhiều Phân khoa, Học
viện về Kinh Thánh cũng được thiết lập tại Giêrusalem cũng như tại một số nơi
khác. Tất cả những Học viện và Phân Khoa này thực hiện quyết tâm của Giáo Hội
trong tư cách là “Hiền Thê của Ngôi Lời
nhập thể, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, hằng cố gắng hiểu biết Kinh Thánh ngày
càng sâu rộng hơn, hầu không ngừng lấy Lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó,
Giáo Hội có lý khi khuyến khích việc học hỏi các Thánh Giáo Phụ Ðông Phương và
Tây Phương cũng như Phụng vụ thánh. Thánh Công đồng khuyến khích con cái Giáo
Hội đang chuyên cần học hỏi những khoa học Kinh Thánh, hãy tiếp tục theo đuổi
công trình đã khởi sự cách tốt đẹp với những năng lực ngày được đổi mới, và
bằng tất cả hăng say hợp với cảm thức của Giáo Hội”(MK 23).
Ngoài ra, Công đồng cũng lập lại điều mà Ðức Thánh Cha Lêô
XIII, trong Thông điệp Providentissimus
Deus đã nói “Kinh Thánh là Linh
hồn của Khoa Thần học thánh”; vì Kinh Thánh chứa đựng Lời Chúa và vì
được linh hứng, nên thực sự là Lời Chúa. Do đó, “Khoa Thần học thánh dựa trên Kinh Thánh và Thánh Truyền như dựa vào
một nền tảng vĩnh cửu. Trên nền tảng này, thần học được củng cố, trở nên vững
chắc và được trẻ trung mãi, trong khi tìm kiếm, dưới ánh sáng đức tin, tất cả
chân lý tiềm ẩn trong Mầu nhiệm Chúa Kitô” (MK 24).
Chính trong buổi tiếp kiến các đại biểu tham dự Khoá hội
nghị về Kinh Thánh vừa qua ở Rôma, Ðức Thánh Cha cũng có một nhận định tương
tự: “Lời Chúa không già cỗi bao giờ; vì
thế, Giáo Hội cần được đổi mới không ngừng”. Công đồng cũng không quên nhắc
nhở những ai thi hành “thừa tác vụ Lời
Chúa - nghĩa là việc rao giảng mục vụ, dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô
giáo, trong đó bài giảng phục vụ phải chiếm một chỗ quan trọng - phải được nuôi
dưỡng lành mạnh và gia tăng sinh lực cách thánh thiện nhờ lời Kinh Thánh” (MK 24).
(5) Trau dồi bài
giảng, bằng cách học hỏi Lời Chúa và cầu nguyện
Muốn cho Lời Chúa đến được với các tín hữu trong tình trạng
tốt nhất, chúng ta không thể nào không nghĩ đến bài giảng (homélie). Có biết
bao thừa tác viên đã nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của các tín hữu bằng Lời
Chúa được trình bày sống động, phong phú, mà luôn tôn trọng được bản chất của
Lời. Nhưng cũng không thiếu thừa viên đã để cho các công việc khác lấn chiếm,
nên việc giảng Lời Chúa trong thánh lễ đã trở thành một việc chiếu lệ.
THÐGM XII đã lưu ý là các thừa tác viên phải hiện tại hóa
Lời Chúa trong bài giảng và đề nghị cho soạn một “Cẩm nang về bài diễn giảng”.
Lời Chúa được hiện tại hoá đưa người tín hữu đến mầu nhiệm được cử
hành, mời ra đi truyền giáo và chia sẻ niềm vui và những đau đớn, các hy vọng
và các nỗi sợ hãi của các tín hữu (Ðề nghị 15). THÐGM đề nghị là các vị giảng
thuyết (giám mục, linh mục, phó tế) phải dọn lòng trong cầu nguyện, để cho các
ngài rao giảng cách xác tín và say mê. Các ngài phải đặt ra cho mình ba câu
hỏi: (1) Các bài đọc nói gì? (2) Các bài đọc nói gì với riêng tôi ? (3)
Tôi phải nói gì với cộng đoàn, trong tình trạng cụ thể của cộng đoàn này?
Vị giảng thuyết trước hết phải để cho Lời Chúa mà mình loan
báo thôi thúc, cật vấn mình. Bài giảng phải được nuôi dưỡng bằng giáo lý và
truyền đạt giáo huấn của Hội Thánh để củng cố đức tin, kêu gọi hoán cải trong
khung cảnh cuộc cử hành và chuẩn bị đi vào cuộc hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua
trong cử hành Thánh Thể. Chúng ta chờ đợi đề nghị của các Nghị phụ nên thành
sự: làm một quyển Cẩm nang về bài giảng để trình bày các nguyên tắc của thuyết
giảng và nghệ thuật truyền thông, nhất là nội dung các chủ đề Kinh Thánh thường
có trong các Sách Bài đọc được sử dụng trong Phụng vụ.
(6) Quan tâm đưa Lời
Chúa hội nhập vào trong môi trường văn hoá
Chúng ta không thể nào phủ nhận yếu tố hội nhập văn hoá
trong công việc phổ biến Lời Chúa.
Mặc khải được thành hình nhờ kín múc trong các nền văn hoá
khác nhau của loài người những giá trị trung thực khả dĩ diễn tả chân lý, mà để
cứu độ chúng ta, Thiên Chúa đã thông tri cho loài người (x. MK 11).
Quả thế, Lời Chúa, trong tư cách là Mặc khải, đã nhấn chìm vào trong các nền
văn hoá sự hiểu biết chân lý, mà nếu làm cách khác, chân lý này hẳn là sẽ không
được biết đến và đã tạo ra sự tiến bộ và phát triển về văn hoá. Lệnh truyền
Chúa đã ban cho Hội Thánh là loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (x. Mc
16,15) hàm chứa việc gặp gỡ của Lời Chúa với tất cả các dân tộc trên trái đất
và nền văn hoá của họ. Ðiều này giả thiết là cũng có một tiến trình hội nhập
văn hoá của Lời Chúa, đã xảy ra trong Mặc khải.
Như thế, Lời Chúa phải thấm nhập vào mọi môi trường sao cho
văn hoá sản sinh ra những cách diễn tả độc đáo sự sống, phụng vụ, tư tưởng Kitô
giáo. Những đức tính của mọi thời như được Lời Chúa làm cho phong phú từ bên
trong, được củng cố, bổ túc, và tái tạo trong Chúa Kitô (MV 58), và bằng
cách đó gợi ra những cách thức mới diễn tả đời sống Kitô hữu.
Nhằm một việc hội nhập văn hoá trung thực sứ điệp Tin Mừng,
ta phải đảm bảo việc đào tạo các nhà truyền giáo bằng những phương tiện thích
hợp để hiểu biết tận chiều sâu môi trường sống, hoàn cảnh văn hoá xã hội, sao
cho họ có thể tháp nhập vào trong môi trường, trong ngôn ngữ cũng như trong các
nền văn hoá bản địa. Trách nhiệm đầu tiên của Hội Thánh địa phương là làm cho
sứ điệp Tin Mừng có thể hội nhập văn hoá trung thực, trong khi dĩ nhiên vẫn lưu
ý đến nguy cơ chiết trung. Phẩm chất của công việc hội nhập văn hoá tùy thuộc
mức độ chín chắn của cộng đoàn có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Kết luận
1. Lời Chúa, nguồn Hy
vọng
Ðể kết thúc, chúng ta nên nhìn lại quá khứ một chút, để rồi
nhìn về tương lai với niềm hy vọng: sau Năm Thánh Mẫu của Hội Thánh toàn cầu
năm 1985 và sau lễ phong hiển thánh 117 vị Tử đạo Việt Nam vào năm 1988, người
ta ghi nhận có một hiện tượng bất ngờ: một con số đông các dân tộc thiểu số rải
rác trên các vùng đồi núi của đất nước chúng ta, đã hàng loạt trở lại đạo Công
giáo hoặc các giáo phái Tin Mừng và Tin lành: người Mường, người H’mong... tại
miền Bắc ; người Bana, Sêđang, Giarai... tại giáo phận Kontum; người K’Ho,
người Churu trong giáo phận Ðà Lạt. Bí mật của hiện tượng này, chính là sức
thu hút phi thường của Lời Chúa. Nhiều người mới trở lại với đức tin công giáo
đã tuyên bố rằng họ vẫn nghe đều đặn các chương trình phát thanh hằng ngày của
Ðài Phát thanh ở Manila, phổ biến sứ điệp Kinh Thánh và Tin Mừng. Chính các
hoàn cảnh ngẫu nhiên đã dẫn đưa họ đến với Hội Thánh Công giáo. Có những người
đã nghe các bài suy niệm Kinh Thánh được Ðài Phát thánh Chân lý Á châu, cũng ở
tại Manila, phổ biến và đã trực tiếp tìm ra nẻo đường về với Hội Thánh Công
giáo.
Các giáo phận Kontum, Ban Mê Thuột, Ðà Lạt và Nha Trang, tại
đó, các dân tộc thiểu số chiếm một tỷ lệ quan trọng về dân số, đã lên cả một
chương trình truyền giáo có tổ chức chặt chẽ, năng động và hữu hiệu. Một trong
các mục tiêu ưu tiên là dịch Kinh Thánh ra ngôn ngữ địa phương. Cho tới nay,
người ta đã xuất bản Tân Ước bằng tiếng H’mong tại Hưng Hoá; bằng tiếng Bana,
tiếng Sêđang, tiếng Giarai tại Kontum; tiếng K’Ho tại Ðà Lạt; tiếng Raglai tại
Nha Trang. Lời Chúa mở âm thầm nhưng hữu hiệu con đường hy vọng cho các dân tộc
thiểu số đang ở giữa những dân tộc nghèo nhất của đất nước. Niềm vui và sự hãnh
diện được lắng nghe Lời Chúa trực tiếp bằng tiếng mẹ đẻ và đáp trả Lời Chúa
bằng những bài ca và những lời kinh đã được thích ứng với tinh thần của nền văn
hoá của họ củng cố thêm chân tính văn hoá của họ và góp phần thật sự vào việc
phát triển họ toàn diện. Những người Việt, còn được gọi là người “Kinh”, chiếm
85% dân số của toàn đất nước, cũng đã sống một kinh nghiệm tương tự khi trở
thành Kitô hữu.
2. Huyền nhiệm Thánh
Giá
Lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam đã cho thấy các hoa trái
phong phú tuyệt vời của huyền nhiệm Thánh Giá được đã được sống và
được chuyển cho Dân Kitô hữu bởi vị giám mục đầu tiên, Ðức Cha Pierre Lambert
de la Motte. Lời cứu chuộc của Thiên Chúa, diễn tả tình yêu cứu chuộc lớn lao
nhất của Ngài (x. Ga 3,16), đạt tới đỉnh cao trong mầu nhiệm Thánh Giá, nguồn
an ủi, sức mạnh và khôn ngoan (x. 1 Cr 1,22-25).
Tình yêu đối với Thánh Giá đã được tỏ ra mạnh mẽ và gắn bó
trong lòng của các Thánh Tử đạo Việt Nam, đến nỗi các ngài đã sẵn sàng chết vì
tình yêu đối với Ðức Chúa chịu đóng đinh của các ngài hơn là chà đạp dấu chỉ ơn
Cứu chuộc dưới chân. Lời cứu chuộc này cô đọng trong quyển sách Thánh Giá đã
đào luyện ra một đoàn các chứng nhân - các vị tử đạo theo nguyên ngữ - trước
tiên là những chứng nhân về niềm hy vọng. Quả thật, khi hy sinh mạng sống các
ngài trên mặt đất, các ngài hy vọng tìm lại được sự sống vĩnh cửu trên trời (x.
Ga 12,25); khi từ chối chà đạp Thánh Giá dưới chân, các ngài hy vọng khuyến
khích được con cháu hoặc những anh chị em đồng đạo sống trung thành với đức tin;
khi chấp nhận chịu bách hại và chết như Chúa mình, các ngài hy vọng trở thành
hạt lúa mì rơi xuống đất, chết đi và mang lại hoa trái dồi dào (x. Ga 12,24).
Và trong thực tế, máu các ngài đổ ra, được Lời Chúa đã được suy gẫm và cầu
nguyện làm cho nên phong phú, đang mang lại hoa trái dồi dào, mà các dấu chỉ
nhận ra được hôm nay là đời sống đức tin mạnh mẽ của Dân Thiên Chúa và con số
ngày một gia tăng các ơn gọi tu sĩ và linh mục tại quê hương.
Tất cả các thánh Tử đạo chúng ta, trước khi bị hành hình, đã
xin phép được cầu nguyện, thay vì ăn một bữa ăn thịnh sọan người ta cho như một
dấu chỉ về lòng nhân đạo in extremis theo luật hình sự Việt Nam. Lời cầu
nguyện, theo lời rất soi sáng của Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong Thông điệpSpe
salvi ngày 30-11-2007, “là trường
học đầu tiên hoặc nơi chính yếu để học tập về niềm hy vọng”, và Ðức Thánh
Cha đã trích dẫn hai quyển sách của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn
Thuận[10], mà ngài coi như một chứng nhân về một niềm hy vọng to lớn không qua
đi, cho dù ở ngay trong những đêm đen cô độc[11]. Lời cầu nguyện mà các thánh
Tử đạo chúng ta đã quý hơn bữa ăn, đã không những dạy các ngài về niềm hy vọng,
mà còn ban cho niềm hy vọng của các ngài dấu ấn tối hậu và vĩnh viễn như một
triều thiên chiến thắng khiến các ngài trở thành những chứng nhân vĩ đại về
niềm hy vọng ban ơn cứu độ (x. Rm 8,24).
Cũng thế, đau khổ không chỉ là một nơi khác để học tập về
niềm hy vọng, mà còn được biến đổi bởi sức mạnh của niềm hy vọng, phát xuất từ
đức tin, thành lời kinh ca ngợi và tạ ơn. Ðể minh họa phương diện này, Ðức
Thánh Cha đã trích trong Thông điệp Spe salvi cả một đoạn từ bức thư
nổi tiếng của thánh tử đạo Phaolô Bảo Tịnh [12].
* * *
Nhìn lại biết bao điều kỳ diệu trong Hội Thánh kể từ ngày
Thánh Công đồng công bố Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum thời
gian hơn 40 năm qua, chúng ta chỉ biết dâng lời chúc tụng, tôn vinh, cảm tạ
Thiên Chúa Ba Ngôi đã đoái thương ban cho Hội Thánh kho tàng mặc khải vô cùng
quý báu ẩn chứa nơi bộ Kinh Thánh; để nhờ đó, chúng ta khám phá ra điều mà Mẹ
Maria đã tuyên bố trong lời kinh Magnificat: “Lòng nhân nghĩa Chúa trải
qua đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Chúa”; và trong tư cách là con
cái của Hội Thánh Việt Nam, chúng ta sẽ mãi mãi hiệp thông với mọi thành phần
Dân Thiên Chúa thuộc mọi thời đại trên toàn thế giới, để “thành kính lắng nghe
Lời Thiên Chúa mà có thể tin tưởng công bố Lời của Ngài” (MK 1).
UB Kinh Thánh / HĐGMVN
––––––––––––––––––––––––
[1] Ngày 11-10-1962, Công đồng Vatican II được khai mạc bằng
một nghi thức long trọng.
[2] John ONAIYEKAN, “From Dei Verbum to Novo
Millennio Ineunte - The Reception Process of Dei Verbum”, Dei
Verbum76/77 (2005) 24tt.
[3] Walter KASPER, “The Constitution on Devine
Revelation Dei Verbum”, Dei Verbum 76/77 (2005) 14tt.
[4] Paul CLAUDEL trong tác phẩm “L’ Ecriture
Sainte dans La Vie intellectuelle” 16.
[5] X. Alexandre DE RHODES, S.J. Histoire du
Royaume de Tunquin et des grands progrez que la prédication de l’Évangile y a
faits en la conversion des Infidèles depuis l’Année 1617, jusques à l’Année
1646. A Lyon 1651, Livre II, Chapitre XII, tr. 161-165.
[6] “Đây là linh mục Nam bộ Việt Nam tên
Louis Doan (Lữ Y Đoan), một trong những thầy giảng kỳ cựu nhất và trí thức của
Vương quốc” (Cf. A. LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine. Documents
historiques I (1658-1728), Paris1923, tr.197.
[7] X. JEAN-PAUL II, Rosarium Virginis Mariae,
s. 21.
[8] Xin ghi lai đây một vài con số: Ngũ Thư (3.000 cuốn);
Lịch sử (3.000 cuốn); Ngôn sứ (3.000 cuốn); Giáo huấn (3.000 cuốn); Bốn Sách
Tin Mừng (20.000 cuốn); Ðối chiếu Bốn Sách Tin Mừng (10.000 cuốn); Kinh Thánh
trọn bộ có dẫn nhập và chú thích đơn giản (200.000 cuốn); Kinh Thánh trọn bộ cỡ
lớn để trưng (500 bản); Tân Ước có dẫn nhập và chú thích đơn giản (1.535.000
cuốn); Lời Chúa trong Thánh lễ (80.000 bản); Lời Chúa cho mọi người với dẫn
nhập và chú thích của Bernard Hurault và Louis Hurault (Kinh Thánh trọn bộ:
20.000 bản; Tân Ước: 45.000 bản); Kể chuyện Kinh Thánh cho trẻ em (6-9 tuổi)
dịch từ bản văn của Pat Alexander (10.000 bản); Kể chuyện Kinh Thánh cho thiếu
niên (10-15 tuổi) dịch từ bản của Pat Alexander (10.000 bản).
[9] http://www.freewebs.com/nguyensj/NamLoiChua/DocKTvaCN.htm
[10] Đây là quyển sách nhỏ quý báu “Prières d’espérance” (x. Spe
salvi, s. 32) và quyển Linh thao của ngài mang tựa đềTémoins de l’espérance”,
Montrouge, Cité Nouvelle (2000) (x. Spe salvi, s. 34).
[11] X. Bênêđitô XVI, Spe salvi, s. 32.
[12] X. Spe salvi, s. 37.
Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam