Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, xuất thân từ một gia đình văn nghiệp. Cha của ông là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền „Văn Học Mới“ hồi đầu thế kỷ 20. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
Ông sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân Dậu) tại phố Hàng Cót, Hà
Nội. Phạm Duy học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học tiểu học tại trường Hàng
Vôi, học không được giỏi và thường bị phạt. Đến khi 13 tuổi (1934) vào được lớp
nhất, ông học giỏi lên dần, thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất
là môn đọc thơ tiếng Pháp.
Năm 1936, vào học ở trường Thăng Long, một trọng điểm trong thời kỳ kháng chiến.
Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng...
nhưng ông không có năng khiếu nhiều và không ham vẽ cho lắm. Thời kỳ này ông ca
hát nhiều hơn là vẽ tranh.
Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay "Cô hái mơ".
Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải
lương Đức Huy -- Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi rất nhiều miền trên đất
nước, từ Bắc chí Nam, khiến ông mở mang tầm mắt, ngoài ra tự nhiên cũng trở
thành một trong những nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các
vùng. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu
Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Nguyễn Văn Đông... và nhất là nhạc sĩ
Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang
nhiều nơi, sau đó ông theo kháng chiến. Trong thời Chiến Tranh Đông Dương lần
thứ nhất, Phạm Duy trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong
những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng.
Năm 1951, ông đem gia đình vào Sài Gòn.
Năm 1953, ông qua Pháp học về âm nhạc, tại đây quen với giáo
sư Trần Văn Khê. Về lại miền Nam Việt Nam, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn
trong ban hợp ca Thăng Long. Nhạc Phạm Duy phổ biến rất rộng rãi ở miền Nam
Từ sau 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình cư ngụ tại Thành
phố Midway, Quận Cam, California.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4
cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến
ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, lần
đầu về thăm quê hương sau 25 năm lưu lạc, ông gặp gỡ nhiều bạn cũ ở Việt Nam.
Tháng 5 năm 2005, ông trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Sài Gòn, cùng các con trai Duy Quang (ca sĩ) và Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, có 9 nhạc phẩm của ông được phép lưu hành ở Việt Nam; tháng 11, được phép lưu hành thêm 10 tác phẩm nữa. Tính đến tháng 8 năm 2007 đã có hơn 40 tác phẩm của Phạm Duy được phổ biến tại Việt Nam, kể cả các đoản ca trong "Trường ca con đường cái quan".
Ông qua đời tại Sài Gòn vào ngày 27 tháng 1 năm 2013, hưởng thọ
93 tuổi.
>>> Đám tang nhạc sĩ Phạm Duy | RFI
>>> Nhạc Sĩ Phạm Duy qua đời | BBC
>>> Nhạc Sĩ Phạm Duy qua đời tại Sài Gòn | VOA
>>> Nhạc Sĩ Phạm Duy: Những bộc bạch cuối đời
>>> Trang Web của Phạm Duy
>>> Đám tang nhạc sĩ Phạm Duy | RFI
>>> Nhạc Sĩ Phạm Duy qua đời | BBC
>>> Nhạc Sĩ Phạm Duy qua đời tại Sài Gòn | VOA
>>> Nhạc Sĩ Phạm Duy: Những bộc bạch cuối đời
>>> Trang Web của Phạm Duy