Kể từ khi Đức Thánh Cha Gio-an XXIII chính thức khai mạc
Công Đồng Vatican II vào ngày 11 tháng 10 năm 1962 đến nay đã gần trọn 50 năm.
Ngoài những đặc tính được nêu ra như đối thoại, tự do và hiệp nhất thì Công
Đồng Vatican II còn được xem như một nguồn sáng mới soi dẫn cho Giáo Hội tiếp
bước trên một hành trình đức tin vẫn còn dài. Như lời Đức Thánh Cha xác định
trong diễn văn khai mạc thì sau 20 thế kỷ hiện diện, Giáo Hội lại được thêm “nguồn năng lực mới” để mạnh dạn hướng
về tương lai. Vì vậy mà trong khoảng thời gian một nửa thế kỷ này, Giáo Hội
hoàn vũ cũng đã nỗ lực canh tân sức sống để hoà nhịp cùng thế giới giữa biết
bao biến đổi và phát triển về mọi lãnh vực, nhất là khoa học và kỹ thuật.
Như trong lời mở đầu của Sắc Lệnh này, Công Đồng nhấn
mạnh về vai trò của giáo dân là “những
người có phần riêng biệt và cần thiết trong sứ mệnh của Giáo Hội” (quorum
partes in missione Ecclesiae proprias et omnino necessarias…) nên
phải hiểu việc tông đồ giáo dân chính là một ơn gọi. Lại nữa, ơn gọi này
không cần những loại điều kiện ắt có và đủ như phải có thời gian bao năm tu
hành hay chương trình đào luyện rồi truyền chức hay sắc phong mới được, mà là
mỗi người đều nhận được ngay từ lúc chịu phép rửa tội.
Có điều, không biết do đâu và theo cách giảng dạy kiểu nào mà phần lớn giáo dân Việt Nam từ xa xưa tới giờ
vẫn chỉ nghĩ rằng Bí tích Rửa tội được Chúa lập ra là cốt để
rửa cho họ được sạch tội tổ tông truyền. Vì vậy mà người giáo dân sau khi
rửa tội xong thì cứ thong thả tiếp tục lớn lên theo một tiến trình đều đặn qua
từng chặng cố định của “phép đạo”. Thành ra, đời sống một giáo dân xem ra thật là nhẹ nhàng với những ngày, tháng, năm đủng đỉnh theo
một mẫu số chung. Đến tuổi thì rước lễ lần đầu, chịu phép thêm sức,
rồi siêng năng xưng tội rước lễ đều đặn và nếu đau ốm thập tử nhất sinh sẽ nhận
thêm Bí tích Xức dầu. Khi đã vào độ tuổi trưởng thành trở đi là
thời gian bắt đầu chọn lựa để quyết nhận một trong hai giữa Bí tích Hôn
phối và Bí tích Truyền Chức Thánh. Song lại cũng có người nhận hoặc
không nhận cả hai bí tích này… Và thế là trọn vẹn đời sống một môn đệ của Đấng
đã phải hy sinh trên cây thập tự cứu chuộc.
Có điều, nếu chỉ làm bấy
nhiêu sự thôi là đủ để được cứu độ thì hà cớ gì Chúa phải nhọc công xuống thế
làm người? Và hóa ra cả một đời mang danh có đạo lại chẳng làm gì cho đạo cũng
như chẳng hiểu đạo đã cho mình ơn gì ngoài một số ý niệm về sự đời đời ngày
sau, ngay khi Chúa đang ở với ta giữa đời này, đang có mặt và chờ ta làm việc
thuộc đấng bậc mình như Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân khẳng-định: “Ở đâu có người thiếu ăn, thiếu uống, thiếu
mặc, thiếu nhà ở, thiếu thuốc men, thiếu việc làm, thiếu giáo dục, thiếu những
phương tiện cần thiết để sống xứng danh con người, ở đâu có người bị đau khổ vì
nghịch cảnh, ốm yếu, chịu cảnh lưu đày, tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải
tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng”(Sắc
Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, chương II, đoạn 8 câu 4). Đấy cũng là ý Chúa “Mỗi khi anh em làm những việc đó cho một
trong những người này là anh em ta đây tức là đã làm cho Ta vậy” (Mt.
25, 40).
Theo ý nghĩa và tinh thần của lời vừa trích dẫn trên đây thì
Bí tích Rửa Tội không chỉ có nghĩa là một ân sủng cho riêng cá nhân mình
được sạch tội mà lên thiên đàng, song là để tiếp nhận sứ vụ đem Tin Mừng cứu độ
cho mọi người, một sứ vụ mang dấu chỉ của thập giá đã nhận lấy từ nơi Đức Kitô,
để bằng những việc làm thực tiễn từng ngày trong cuộc sống mà làm sáng lên được
chân lý yêu thương. Là sống đạo chứ không phải theo đạo và giữ đạo khư
khư trong sự ù lì và ỷ lại rồi vô tình bỏ phí mất nguồn ơn đoàn
sủng tuyệt vời này. Nếu không thì nơi phần cuối của Sắc Lệnh, Công Đồng đã
chẳng kêu gọi: “Như thế giáo dân hãy
chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa, cộng tác vào cùng một công cuộc tông
đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác
viên phải luôn luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không
ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng
phí trong Người“ (cf. 1Cor 15, 58).
Bằng vào lời kêu gọi này, thiết nghĩ mỗi giáo dân trong Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam hiện nay cũng đã đến lúc cần phải “chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa” cách cụ thể và
trưởng thành, hơn là thụ động ngồi chờ đợi ở Vatican, ở các giám mục, giáo sĩ,
tu sĩ… rồi than van, trách oán hoặc đặt ra những câu hỏi tại sao, tại sao và tại
sao. Nhất là cần phải thoát ra khỏi cái não trạng trì trệ kiểu con thơ
măng sữa cứ phải chờ cho bú mớm mới sống được.
Hội thánh đã xác định: “Vì bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc
đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô
giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột…giáo dân phải đảm nhận
việc canh tân trật tự trần thế như là nhiệm vụ riêng, và trong nhiệm vụ đó, nhờ
được ánh sáng Phúc Âm soi chiếu tinh thần của Giáo Hội hướng dẫn, và bác ái
Kitô giáo thúc đẩy, họ phải trực tiếp và cương quyết hành động. Với tư
cách là công dân, họ phải đem khả năng chuyên môn cùng tinh thần trách nhiệm để
cộng tác với các công dân khác. Họ phải tìm sự công chính nước Thiên
Chúa ở mọi nơi và trong mọi sự…”
Tiếc thay, nguyên tắc chung này đã trở thành những văn kiện
vô hồn vì bị phần lớn tín hữu trong cộng đồng Dân Chúa Việt Nam bỏ
xó cả nửa thế kỷ qua mà chính ra phải được học hỏi rồi thực hành sứ vụ tìm sự công chính nước Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi sự giữa xã
hội đang sống hiện nay.
Mới đây, trong một dịp sinh hoạt với Liên Đoàn Công Giáo
Việt Nam tại Hoa Kỳ, đức Giám mục Vincent Nguyễn Văn Long cũng đã chia sẻ
một số điều thiết thực “…Chân phước
Gioan Phaolô II đã cho chúng ta thấy rằng, tranh đấu cho công lý và sự thật,
cho tự do và nhân phẩm không phải là việc làm của những kẻ muốn chính trị hóa
tôn giáo mà là bổn phận ‘nhập thể hóa’ Tin Mừng và ‘Kitô hóa’ môi trường của
chúng ta. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ, nếu chúng ta chỉ đóng khung
tôn giáo trong những vấn đề siêu nhiên mà hoàn toàn vô cảm với những vui mừng
và hy vọng, những sợ hãi và lo âu của đồng loại, thì phải chăng tôn giáo chỉ là
thứ thuốc phiện ru ngủ chúng ta như lời Karl Marx? Đây cũng là chiêu bài của
cộng sản. Họ muốn tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ dân chúng. Họ muốn
biến tôn giáo trở thành một công cụ của chế độ…”
Thành ra, đã đến thời đến buổi mà mỗi người giáo
dân phải tự đặt câu hỏi và tự trả lời bằng lương tâm
một Kitô hữu là đã nhận thức về ơn gọi làm môn đệ Chúa, làm một
phần tử trong Hội Thánh Người như thế nào? Đã tìm đọc hay tiếp nhận
các văn kiện của Công Đồng, nhất là Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân chưa hay cho đấy
không phải là bổn phận của từng tín hữu. Hoặc giả cũng có rất nhiều người
đã đổ lỗi rằng đáng lẽ ra họ phải được các mục tử và hàng giáo sĩ
hướng dẫn học hỏi qua nhiệm vụ giáo huấn của Hội Thánh trao ban. Sự
đòi hỏi này thực ra cũng không mấy sai khi người giáo dân chưa hiểu rõ vai trò
của mình trong Giáo Hội; chưa biết rằng chính Chúa muốn người giáo dân –
vừa là tín hữu vừa là công dân, phải trưởng thành và tự ý thức bổn phận
mình. Nếu làm được như vậy tức là khối tín hữu Công Giáo Việt Nam
đã biết trả lời trước lương tâm Kitô giáo rằng phải chủ động dấn
thân để cứu mình và giúp đời như thế nào. Bởi vì, trước bao nhiêu sự việc
bất công, phi lý và vô nhân nhan nhản trên đất nước suốt mấy chục
năm qua và vẫn còn đang hoành hành tác tệ cho cả đời lẫn đạo như
cướp đất của dân, đập phá tài sản của cả nhà thờ lẫn nhà chùa;
những vụ gần đây ở Cồn Dầu, ở Tiên Lãng, ở Văn Giang, Quỳ Châu, Con
Cuông, Kontum…mà người Công Giáo vẫn chỉ là một khối dân vô cảm thì ơn
đoàn sủng đâu rồi? Những dòng máu các bậc tử đạo đã đổ ra cho Giáo Hội Việt Nam
thuở ban sơ có còn ý nghĩa nào
không?
Nói đến bậc tử đạo ở Việt Nam là nói đến những tấm gương can
trường về đức tin của những bậc tiền bối. Cho tới nay, nếu nhìn lại
những di sản từ một thời bách đạo ngày trước được lưu giữ tại Hội Thừa Sai
Paris, chẳng hạn như chiếc gông đã từng cùm trên cổ các vị thừa sai; tấm áo
đen bạc mầu của linh mục Théophane Vénard mặc khi ra pháp trường vào năm 1861
hay những đôi dép rách một thời chưa xa ta lắm mà các vị tử đạo đã mang theo “bước
chân đẹp thay của người đi loan báo Tin Mừng” mới thấy Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam hiện nay quá bạc bẽo, bạc nhược, vô cảm và vong thân. Mới thấy cái
tội to lớn của những ai đang chủ trương lèo lái con thuyền Giáo Hội điạ phương
này mỗi ngày mỗi xa nguồn, phóng ngoại. Nếu không có những bàn chân tiên phong
dấn bước trên các ngả đường rao giảng với từng giọt máu thấm sâu
giữa chông gai thì lấy đâu ra ngày nay có được giáo phận này, tổng giáo
phận nọ? Lấy đâu ra thế đứng cho người này, kẻ nọ chỉ vì muốn ngắm nghé ngai,
toà mà bán rẻ mọi giá trị làm người môn đệ của Đức Kitô. Như vậy há chẳng
phải là đã không làm chứng tá Tin Mừng mà ngược lại còn a dua theo bạo quyền
dối gian và sa đoạ thì quả đúng như có lần giám mục Khảm đã mượn lời Đức Thánh
Cha Biển-Đức 16 gọi họ là những tên phản Kitô sao.
Trong Giáo Hội, tuy có nhiều tác vụ khác nhau nhưng cùng
chung một sứ mệnh cho nên Công Đồng cũng đã nhắc nhở theo tinh thần chung của
Hội thánh rằng “các Giám Mục, các
cha sở, các linh mục dòng triều phải nhớ rằng quyền và bổn phận làm tông đồ là
chung cho tất cả mọi tín hữu không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân, và trong
việc xây dựng Giáo Hội, giáo dân cũng có phần riêng của họ”. Cái phần
riêng mà Công Đồng nói ở đây có nghĩa là có những lãnh vực mà
giáo dân phải tự do ý thức và tự phát để hành xử theo lương tâm Công Giáo chứ
không lệ thuộc nơi mục tử và hàng giáo sĩ theo não trạng sai lạc từ xưa. Cho
nên, nếu như giáo dân không nhiệt thành trong nhiệm vụ Thiên Chúa trao ban này
mà cứ ngồi ngây ra nhìn vào giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ mới sống được thì
việc xây dựng Giáo Hội sẽ ra sao, nhất là Giáo Hội Việt Nam hiện nay đang trong
tình trạng rất gần với những cảnh báo của Hội thánh: “Ở thời đại chúng ta phát sinh nhiều vấn đề mới và nhiều sai lầm trầm
trọng đang hoành hành nhằm khuynh đảo tận gốc tôn giáo, trật tự luân lý và
chính xã hội nhân loại, nên Thánh Công Đồng nầy hết lòng khuyên nhủ giáo dân
mỗi người tùy tài năng và vốn liếng giáo lý, phải theo tinh thần của Giáo Hội
mà ân cần chu toàn phận vụ của mình trong việc làm sáng tỏ, bảo vệ các nguyên
tắc Kitô giáo và áp dụng đứng đắn những nguyên tắc đó vào những vấn đề của thời
đại này.”(Sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân, chương II, đoạn 6).
Ý tuởng trên còn được nhấn mạnh thêm ở một chương khác
rằng: “Vì ở thời đại chúng ta, duy vật
chủ nghĩa dưới mọi hình thức đang lan tràn khắp nơi, ngay cả giữa những người
công giáo, nên người giáo dân không những phải chuyên cần học hỏi giáo lý công
giáo, đặc biệt là những vấn đề đang được đem ra tranh luận, mà họ còn phải làm
chứng bằng một đời sống Phúc Âm để chống lại với bất cứ hình thức duy vật chủ
nghĩa nào” (Sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân, chương VI, đoạn 31 câu 6). Đường
lối này của Hội thánh xem ra chưa cập nhật với tuyệt đại đa số giáo dân Việt
Nam vốn đã chỉ quen sống kiểu thụ động giắt díu nhau “theo” đạo trên lối mòn
kinh kệ, rước sách, hội đoàn sinh hoạt và tiệc tùng cùng a dua xu nịnh theo
“các đấng làm thầy” cách mù quáng mà thờ ơ trước những vấn nạn của đức ái và
công bình. Còn lại bất cứ gì liên quan đến Giáo Hội thì khoán trắng cho
hàng giáo phẩm và giáo sĩ với lý luận xuôi chiều là “các ngài” đã được Chúa
chọn, đã có chức thánh nên cũng đủ khôn ngoan mọi đàng; vậy bất cứ sự gì
cũng phải do “các ngài” quyết định và dẫn dắt chứ không ngờ rằng đó là một nố
tội về những điều thiếu sót, như một nhận xét của đức Giám mục Vincent
Nguyễn văn Long, thuộc Tổng giáo phận Melbourne – Úc châu rằng: “Nhiều người Công Giáo quan niệm rằng, đạo
và đời là hai thực thể riêng biệt. Chính vì thế, câu nói “người Công Giáo không
làm chính trị” đối với họ đã trở thành sự biện minh cho thái độ vô cảm hay chủ
trương không tham dự vào những vấn đề xã hội và đất nước.”
Tuy nhiên cũng không phải là chỉ có giáo dân mới ở trong
nhận xét trên, mà phần lớn giáo sĩ, tu sĩ cũng đã nghĩ và sống hoàn toàn vô cảm
và vô trách nhiệm như vậy. Cụ thể là ở trong nước thì nương theo thế quyền,
dương dương tự đắc với giáo dân về năng quyền trong các bí tích và chức thánh
được mang để giáo dân phải quỵ lụy. Còn ở hải ngoại thì phần lớn linh mục, tu
sĩ cũng tránh dự phần với các sinh hoạt xã hội hay cộng đồng có
liên quan đến quê hương, đến đất nước; nhất là những gì có tính cách chống chế
độ cộng sản độc tài; cho dù sau khi vượt biên, muốn được đi định cư tại các
quốc gia tạm dụng thì ai cũng lớn tiếng tuyên bố là đi tỵ nạn cộng sản. Thành
ra, suốt hơn ba chục năm qua, đâu mấy ai còn đủ cương trực để nhận định và chia
sẻ những lời này của vị mục tử luôn trung thành với “căn cước tỵ nạn” của
mình “Vì căn nguyên của sự nghèo đói và của những nỗi nhục quốc thể ở
trong nước cũng như ở ngoài nước là hệ thống chính trị lỗi thời, là chế độ cộng
sản tham nhũng, bất công và phi nhân. Tôi sẽ không bao giờ ngần ngại để nói lên
sự thật phũ phàng đó. Tôi sẽ không bao giờ tách lìa lý tưởng một Việt Nam
phi cộng sản và một Việt Nam nhân bản ra khỏi sứ mạng giám mục của tôi”.
Đã từ lâu, cái nhóm chữ “không làm chính trị” được nhiều
người lạm dụng như là một loại “thẻ bài miễn tử” hai mặt. Bởi vì, chỉ có lên
tiếng phản kháng hay phê phán chính sách độc tài, gian dối của nhà nước
cộng sản thì mới là chính trị; còn khi hùa theo hay mặc sức giảng giải để tuyên
truyền giúp cho chế độ phi nhân này thì lại đưọc gọi đó là bài giảng theo
mùa phụng vụ…
Không phải ai cũng khiêm tốn như Đức Giám mục Nguyễn
Văn Long khi nói “Nhiều người nghĩ
rằng, giám mục thì có thể nói về bất cứ vấn đề gì. Thực tế thì không như thế...”
mà còn hơn thế nữa, có rất nhiều giám mục tự nghĩ có quyền muốn
nói sao cũng được, cho nên mới có những cung cách thản nhiên ăn nói kiểu “cánh
chung luận” hay “nhiệt thành của thập giá”. Rồi còn những “mục vụ” tạo
nguồn thu, “mục vụ” nhà đất, “mục vụ” nhà trẻ, “mục vụ” xây cất nữa. Song
song với những mục vụ kiểu này là các khu nhà nghỉ dưỡng năm sao; các
chuyến đi nước ngoài kiểu ba lợi ích bốn lợi dụng hay đổ cả hàng chục tỷ bạc
vào những cuộc hành hương rộn ràng như những “tours” du lịch của khách nhàn du,
giữa khi dân nghèo xác xơ sống vất vả cùng khắp mọi nơi như bụi đuờng,
bệnh nhân nghèo nằm la liệt ngoài hành lang các bệnh viện chờ chết vì chưa có
tiền thì chưa được nhận để chữa trị và không có cơm ăn…
Nửa thế kỷ sắp qua đi nhưng những định hướng căn bản của
Công Đồng Vatican II vẫn như luồng ánh sáng chưa được loé lên ở cuối đường hầm
Giáo Hội Việt Nam. Vào dịp năm 2000, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô đệ nhị đã
nhắc lại rằng: “Công-Đồng Vatican II đã
cho chúng ta nhiều tặng thưởng quý giá từ 35 năm qua và còn tiếp tục dẫn đưa
chúng ta trong nhiều năm nữa. Công việc của Giáo Hội bây giờ là học hỏi những
điều đã đề ra trong những văn kiện của Công Đồng và đem ra thực hành có hiệu
quả…”
Cho nên, bằng vào những huấn giáo phong phú đó, người giáo
dân nên chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa để mạnh dạn cùng Chúa
dấn thân vào đời với từng cây thập giá nho nhỏ vừa sức cũng như đừng để lãng
phí luôn cả nguồn ân sủng mà như nhận định của
một giới chức cao cấp của Toà Thánh từng lui tới Việt Nam đã chia sẻ
…uổng cho Giáo Hội Việt Nam khi Thánh Thần tác động ngược vì giáo dân thì nhiệt
thành nhưng giáo phẩm thì quá nhiều vấn đề…
Phạm Minh Tâm
02/7/2012