Khi tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường nghe thấy người lớn dạy con cái, cháu chắt của
mình rằng: “Chúng ta là con nhà có hồn có
xác, phải biết phụng thờ Thiên Chúa bằng việc siêng năng đi lễ nhà thờ, chịu
khó lần hạt để thể hiện niềm tin của mình vào Chúa”[1][1]. Khi lớn lên một chút, có
dịp đi đây đó, học hỏi và từng trải trong cuộc sống, tôi mới khám phá ra rằng:
tin không phải là chỉ có chuyện đi lễ nhà thờ, đọc năm ba câu kinh, lần một vài
tràng chuỗi Mân côi là xong. Không phải chỉ có thế, mà tin ở đây còn phải là
một thái độ, một hành vi lựa chọn. Tin Thiên Chúa thì cũng có nghĩa là ở lại
trong Người. Ở lại trong Người là gì nếu chẳng phải là tình yêu được nên một
với Người!
Lược qua lịch sử Giáo Hội Việt Nam, những thử thách đau khổ
của cha ông ta cũng không kém gì các tông đồ và những tín hữu thời Giáo Hội sơ
khai. 300 năm bắt đạo, cũng là 300 năm tổ tiên chúng ta sống trong đau khổ liên
lỉ, đôi khi sự cấm cách có chùng xuống, nhưng đấy cũng chỉ là hình thức hoãn
binh để chuẩn bị cho một cuộc bắt bớ mới ác liệt, tàn khốc hơn mà thôi. Những
hình khổ như: xiềng xích, gông cùm, bỏ đói, phơi nắng, đánh đòn, voi giầy, phân
thây, thắt cổ, thiêu sống, trôi sông và cuối cùng là đầu rơi máu đổ... đã không
làm cho các ngài sợ hãi, ngược lại, đứng trước những đau khổ dã man, các ngài
được “Tình yêu Đức Kitô thúc bách” (2
Cr 5, 14) nên đây lại là cơ hội thuận tiện để các ngài biểu lộ tình yêu tuyệt
đối của mình vào Chúa cách mãnh liệt hơn. Vì thế, các ngài đón nhận tất cả,
đánh đổi tất cả, ngay cả cái chết để tin có Thiên Chúa và chọn Thiên Chúa là
gia nghiệp của mình. Chỉ có tình yêu với Thiên Chúa và niềm tin mãnh liệt vào
Người mới có thể giúp các ngài vượt qua được vũ lực, quyền bính, ma quỷ và yếu
đuối của chính mình.
Qua những hành vi lựa chọn của cha ông, chúng ta thấy toát lên một chân lý là: tin đồng nghĩa với việc đón nhận thập giá: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Lc 14,27); tin là chấp nhận thân phận của hạt lúa gieo vào lòng đất: “Thầy bảo thật anh em: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); tin là đi vào quỹ đạo của tình yêu, một tình yêu dẫn đến cả cái chết, chết cho người mình yêu: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Qua những hành vi lựa chọn của cha ông, chúng ta thấy toát lên một chân lý là: tin đồng nghĩa với việc đón nhận thập giá: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Lc 14,27); tin là chấp nhận thân phận của hạt lúa gieo vào lòng đất: “Thầy bảo thật anh em: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); tin là đi vào quỹ đạo của tình yêu, một tình yêu dẫn đến cả cái chết, chết cho người mình yêu: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Hành vi đức tin đó được khởi đi và gợi hứng từ việc chiêm
ngắm Đức Kitô, một Đức Kitô đã được Chúa Cha đem trồng vào trong mảnh vườn Giáo
Hội qua cung lòng Đức Maria: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga
3,16). Hạt giống đó được ví như hạt lúa
mì gieo vào lòng đất, chấp nhận thối đi
để sinh nhiều bông hạt khác.
Là môn đệ của Thầy Giêsu, chúng ta không có con đường nào
khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã đi. Con đường của hạt lúa gieo vào lòng
đất. Chấp nhận mọi đau thương để đổi lấy hạnh phúc. Chấp nhận lên đồi Canvê để
có Đêm Thánh Phục Sinh. Chấp nhận chén đắng cuộc đời để có mật ngọt của tình
yêu là ơn cứu độ.
Như vậy, đức tin là một quà tặng của Thiên Chúa cho con
người, con người phải đón nhận nó như một hồng ân. Hồng ân đó không mua được
bằng tiền, không có được bằng quyền, mà phải đánh đổi bằng cả cuộc sống qua
thái độ biết ơn và bằng con đường tình yêu. Tin là tin vào Thiên Chúa. Tin cũng
là đi vào Tình Yêu của Người. Tin cũng có nghĩa là sống Tình Yêu đó trong cuộc
đời: “Vạn
sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về Tình yêu
và đi vào trong Tình yêu” ( R. Tagore).
Giáo Hội của Chúa luôn hướng về nội dung đức tin là Thiên
Chúa, nhưng lại hiện hữu rất sống động qua hành vi đức tin được thể hiện nơi
con cái của mình trong mọi thời đại. Sự kết hợp giữa hai chiều kích này đã được
Đức Bênêđictô nói rõ: “Có sự hiệp nhất
sâu xa giữa hành vi tin tưởng và nội dung đức tin mà chúng ta chấp nhận”[2][2]. Quả thật, “cũng như
cái xác không hồn là cái xác chết. Đức tin không có việc làm là đức tin chết”
(Gc 2,26).
Ước mong sao khi tin, chúng ta không chỉ dừng lại ở một niềm
tin mang tính thụ động, nhưng niềm tin đó phải được thể hiện cách sống động
trong đời thường của chúng ta, đức tin ấy: “dẫn
chúng ta vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội”[3][3].
Như vậy, tin
có nghĩa là đi vào Tình Yêu của Thiên Chúa. Đỉnh cao của Tình Yêu này chính là
Thánh Giá cứu chuộc. Vì vậy, đón nhận Thánh Giá trong cuộc đời là một sự can đảm
để sống đức tin và cũng là biểu hiện của người đang ở trong Tình Yêu của Thiên
Chúa.
Jos.Vinc. Ngọc Biển
-----------------------------------------
[4][1] Đây là lối sống và dạy đạo truyền thống tại các làng quê. Những hình thức này ngày nay không còn đáp ứng đủ cho những đòi hỏi và lối sống đạo đương thời. Nhưng lối sống đạo bình dân này đã nuôi sống đức tin của Giáo Hội Việt Nam qua bao thế kỷ.
[5][2] Bênêđictô XVI, Tự sắc Cánh cửa đức tin, số 10.
[6][3] Ibid, số 1.
[4][1] Đây là lối sống và dạy đạo truyền thống tại các làng quê. Những hình thức này ngày nay không còn đáp ứng đủ cho những đòi hỏi và lối sống đạo đương thời. Nhưng lối sống đạo bình dân này đã nuôi sống đức tin của Giáo Hội Việt Nam qua bao thế kỷ.
[5][2] Bênêđictô XVI, Tự sắc Cánh cửa đức tin, số 10.
[6][3] Ibid, số 1.