Sợ là hiện tượng tâm lý, là cảm xúc đau buồn từ việc con người nhận thức các mối đe dọa xung quanh mình. Sợ hãi là một cơ chế tồn tại cơ bản xảy ra trong phản ứng với một kích thích cụ thể, ví dụ như đứng trước một mối hiểm nguy đe dọa tính mạng, trước cơn đau của cơ thể. Sợ hãi thuộc về một nhóm nhỏ các cảm xúc cơ bản hoặc bẩm sinh như: vui, buồn, tức giận của con người [1]. Sợ hãi là khả năng nhận ra nguy hiểm và chạy trốn khỏi nó hoặc ngược lại, người ta sẽ chiến đấu chống lại sự sợ hãi[
Người khác nữa cho rằng sợ hãi là một phần của cuộc sống[4],
xuất hiện khi ta còn là đứa trẻ. Đứa trẻ mới chào đời, lớn dần lên đã biết sợ :
sợ người lạ, sợ bóng tối, sợ con vật, sợ vắng cha vắng mẹ, sợ đến trường đến
lớp. Lớn lên, con người tích thêm những nỗi sợ khác, đủ kiểu, đủ màu. Nỗi sợ có
nhiều định dạng và muôn mặt kích thước. Cứ như thể, con người sống chỉ biết có
mỗi nỗi sợ, mà chẳng biết gì khác ngoài nó nữa.
Sợ hãi cũng lây nhiễm, lôi kéo, mang tính bầy đàn. Người ta
có thể ngửi được mùi sợ hãi của người khác, và nếu không vững đủ, cũng dễ ăn
theo vào cái chốn sợ hãi của người khác bằng sự vô thức của mình[5].
Con người hôm nay đang ở trong một thế giới của nhiều nỗi sợ
hãi. Có người mở mắt ra đã sợ. Đêm về, chợp mắt rồi, mà sợ hãi vẫn vây quanh. Người
ta sợ đủ thứ. Từ cái nhỏ đến cái lớn. Sợ từ ở trong nhà ra ngoài phố ngõ. Sợ từ
ở bên ngoài, và đi vào miền tâm hồn. Từ nỗi sợ con dán nhỏ xíu ở đời thường,
cho đến nỗi sợ con hổ dữ tợn trong tranh vẽ.
Nỗi sợ không ở số ít, trong phép cộng. Nhưng gia tăng theo lũy thừa. Sợ đến từ ngoại
cảnh: sợ thiên tai, động đất, sợ chiến tranh, sợ ly tán, sợ tai nạn giao thông.
Sợ mất nhà, mất đất. Sợ tăng giá. Sợ hàng giả. Sợ thất nghiệp. Sợ mất
chức. Sợ nghèo. Sợ đói. Sợ bệnh tật. Sợ chết.
Nhưng mấy nỗi sợ ấy, có thể khống chế được, vượt qua được nó
để sống và tồn tại. Nhưng có những nỗi sợ mà người ta biết mình khó lòng thoát
ra được, như những ký sinh trùng đáng gờm xâm nhập cơ thể, làm cho con người
chết dần chết mòn, khó tìm ra bệnh hoặc không có thuốc chữa.
Sợ cái xã hội huênh hoang, ra chiều đạo đức, nhưng lại ẩn
chứa cả một sự xuống cấp luân lý, đạo đức, nhân cách của một số đông con người
đang nắm vị thế. Sợ cái cán cân công lý xã hội đã bị kẻ gian “phù phép”, khó
lòng tìm lại được. Sợ những con người “trình độ chỉ có vậy”, bất chấp sinh mạng
của người khác, để nói bừa, làm bậy[6].
Sợ cái qui luật “cá lớn nuốt cá bé” trong xã hội loài người. Sợ cái xã
hội mà ta đang tồn tại, sống chung với nó. Một xã hội với nhiều vết thâm đen.
Mà xã hội đó là gì. Nó không đơn thuần là một khái niệm về
ngôn ngữ, nhưng là cái hình dạng được con người làm ra nó. Xã hội tốt hay
xấu là do con người đúc kết. Cái xã hội trắng đen ấy đâu tự nó hình thành, mà
do chính con người nhúng màu vẽ ra, nhào nặn ra nó.
Hóa ra con người lại sợ chính mình… chủ thể của xã hội. Ở
nơi đó, con người chạm đến những nỗi sợ ẩn giấu bên trong.
Sợ mất ảnh hưởng. Sợ mất thanh danh. Sợ đụng chạm. Sợ “tai
bay vạ gió” nên từ chối sống nhân ái. Sợ bị trả đũa, nên ngậm miệng không nói
lời chân lý. Sợ giáng chức nên nín thở qua cầu, sống kiểu hai mặt, khôn ngoan
kiểu con rắn.
Để chống chọi với nỗi sợ, nhiều người đã tìm nhiều phương
thức để “vượt qua” sự sợ hãi bằng những chiêu bài ích kỷ. Họ không ngần ngại
đạp đổ tha nhân để vượt qua nỗi sợ. Thay vì chiến đấu “chính nghĩa” để chống
lại sợ hãi, họ lại bị “cứng đờ”, khiếp đảm và mặc kệ tất cả. Cái tập hợp cảm
xúc từ sợ hãi vẫn có nhưng đã trở nên những cảm xúc vô nghĩa của một sự đầu
hàng, ăn theo một thứ chủ nghĩa cá nhân, hưởng lợi, dần dà đến sự vô cảm.
Ta bắt đầu sợ sự vô cảm của con người thời đại. Sợ nhân
cách, đạo đức giả. Sợ sự chai lì cảm xúc. Sợ khuôn mặt vô cảm. Sợ kiểu sống
thực dụng, vơ vét. Sợ gặp gỡ… sợ tương giao, vì nơi đó, ta cảm thấy bất an,
không tin nổi.
Đến cái sợ của tâm lý. Sợ cô đơn. Sợ bị quên lãng. Sợ bị coi
thường…
Đến một lúc nào đó, ta chợt nhận ra và khiếp đảm sợ hãi cái
“rách nát” trong tương quan với tha nhân. Một nỗi sợ nặng ký, không cần phân
tích, vì nó đã bẻ gãy tương quan giữa con người với nhau, tạo nên một hố sâu
ngăn cách.
Không có yêu thương. Sẽ chỉ là một thế giới vô nghĩa,
đầy dẫy những nỗi sợ, khủng hoảng. Nó sẽ lý giải cho cái xã hội thực dụng, mà
nơi đó, con người không ngần ngại bóc lột tha nhân, biến anh em mình thành dụng
cụ, hàng hóa phục vụ cho mưu cầu riêng. Và người ta không còn biết gì nữa về
khái niệm nhân nghĩa, bác ái, yêu thương. Con người cân đong đo đếm nhau dựa
trên giá trị vật chất, trình độ, vi bằng, chức vụ. cướp mất giá trị đích thực
quí giá, căn bản vốn có mà Thiên Chúa đã trao ban nơi mỗi người.
Và ta sẽ còn hoảng
hốt,
sợ hãi tột cùng,
đổ toát mồ hôi, run
rẩy…
khi phải sống cùng kẻ “nghèo” tâm linh, nhưng lại
“giàu thói kiêu căng”, kẻ đã hái trộm – nuốt vội trái cấm để thực hiện khát
vọng được bằng Thiên Chúa, sẵn sàng quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa,
chối từ và xô đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình.
Ta sợ hãi khiếp đảm. Bởi biết đó là nỗi bất hạnh tột cùng
của con người khi chính con người dùng tự do của mình để chọn lựa một cuộc sống
không có Thiên Chúa.
Bởi nó sẽ lý giải được biết bao thảm họa đau thương, những
khốn cùng chất chồng, những phi lý, những bất công, bạo lực, giả dối, vô tâm,
suy đạo đức … mà con người đang phải hứng chịu.
Một thế giới của sự
chết…
một thế giới mà con
người
phải xa cách Thiên
Chúa mãi mãi.
Một nỗi sợ khủng khiếp
nhất!
Nữ tu Têrêsa Ngọc Lễ, O.P.
[2] . Định nghĩa của Wikipedia
[3] Nghiên cứu của TS.Adam Perkins – nhà khoa học chuyên ngành
thần kinh học tại bệnh viện Maudsley – London – Anh
[4] X. Jacqueline Girard-Frésard, bác sỹ tâm lý, tác giả cuốn sách
‘‘Nỗi sợ hãi của trẻ’’ (Nhà xuất bản Odile Jacob, 2009)
[5] một nhóm chuyên gia của Đại học Utrecht tại Hà Lan thực hiện
thử nghiệm, Livescience đưa tin, được công bố trên tạp chí Psychological
Science
[6] x. Bài “ Nhân bản nỗi sợ hãi” báo Tuổi Trẻ – thứ Bảy
29/09/2012