Peter Seewald: Giáo-lí ơn
cứu-độ đã được loan-truyền từ hai ngàn năm và từ hai ngàn năm nay có một
Giáo-hội bước theo đức Ki-tô dấn-thân cho hòa-bình, công-lí và tình yêu. Nhưng
vào thời-điểm kết-thúc thiên niên-kỷ thứ hai sau Kitô, kết-quả tổng-kê xem ra
nghèo-nàn như chưa từng có. Thậm chí một nhà văn Mỹ, ông Louis Begley, gọi
thế-kỷ 20 là "một tang lễ ma-quái". Đó là một hoả-ngục gây nên bởi
tội-ác giết người, thảm-sát tập-thể và bạo-lực, nghĩa là một tổng-hợp gói trọn
mọi thứ kinh-hoàng.
Suy-tư về những gì
Thiên Chúa và nhân loại thực-hiện, nhiều người hoài-nghi tự hỏi: Có thực
thế-gian được cứu rỗi? Có thể gọi những năm sau đức Ki-tô là những năm của ơn
cứu-độ?
Đây quả là một chuỗi
nhận-xét và vấn-nạn. Câu hỏi căn-bản ở đây thật ra là có phải Ki-tô giáo đã
mang đến ơn cứu-độ, phải chăng Ki-tô giáo đã mang lại ơn cứu-rỗi hay Ki-tô giáo
thật ra vô hiệu? Phải chăng Ki-tô giáo ngày nay đã mất sức sống?
HY Joseph Ratzinger: Về
vấn-đề này tôi thiết nghĩ trước hết phải nói ngay, ơn cứu-độ, một ơn đến từ
Thiên-chúa, không phải là một thực-thể có định lượng và vì thế không thể
tính-toán đo-lường thêm bớt. Nhìn theo kiến-thức kỹ-thuật, sự phát-triển trong
nhân loại có lẽ đôi khi bị khựng lại, nhưng tựu trung vẫn có sự tiếp-tục
tăng-trưởng. Những gì thuần-tuý là lượng-số, hẳn nhiên ta có thể cân đo được và
có thể nhận ra những tăng giảm của chúng. Nhưng sự thiện nơi con người không
phát-triển theo quy-tắc định-lượng đó, vì mỗi người là một cá-thể mới và vì thế
với mỗi người lại bắt đầu một lịch-sử mới trên một bình-diện nào đó.
Sự phân-biệt trên đây rất hệ-trọng. Cái thiện nơi con người
không thể tính bằng lượng. Bởi thế không thể cho rằng Ki-tô giáo vào năm
khởi-thủy bắt đầu như một hạt cải, và cuối cùng sẽ phải sừng-sững như một đại
thụ và ai cũng có thể thấy nó phát-triển tốt-tươi hơn từ thế-kỷ này sang thế-kỷ
khác. Trái lại nó luôn có thể bị nghiêng đổ hay vấp ngã, vì ơn cứu-rỗi gắn chặt
với tự-do của con người và Thiên Chúa không bao giờ muốn lấy đi tự-do
này.
Vào thời Ánh-sáng đã
nảy ra tư-tưởng cho rằng tiến-trình văn-minh gần như bắt-buộc phải đưa nhân
loại liên-tục tiến lên trên con đường chân, thiện, mỹ, và vì thế trong
tương-lai không thể có những hành-động man-rợ nữa.
Ơn cứu-rỗi luôn gắn liền với tự-do, có thể nói đó chính là
cơ-cấu mạo-hiểm của ơn cứu rỗi. Bởi thế nó không bao giờ đơn thuần được áp đặt
từ ngoài hoặc được xây-dựng kiên-cố với một cơ-cấu vững-chắc, nhưng nó được đặt
vào một chiếc bình dễ vỡ là tự-do con người. Nếu cho rằng con người đã vươn tới
một độ cao, thì cũng phải coi chừng nó có thể rơi xuống và tan-vỡ. Tôi thiết
nghĩ đó chính là cuộc tranh-luận khi đức Ki-tô bị cám-dỗ: Phải chăng ơn cứu-rỗi
phải như một cái gì kiên-định trên dương-gian, có thể tính-toán được theo
nghĩa: mọi người đều có cuả ăn, từ nay không đâu bị đói nữa? Hay ơn cứu-rỗi là
cái gì khác hẳn? Vì nó gắn chặt với tự-do, vì nó không bị áp-đặt cho con người
trong những cơ-cấu có sẵn, mà trái lại luôn nhịp bước với tự-do của con người,
cho nên trong một mức-độ nhất-định nó vẫn có thể bị tan-vỡ.
Ta cũng phải nhìn-nhận rằng Ki-tô giáo đã luôn toả ra một
tình nhân-ái dạt-dào. Những gì Ki-tô giáo đã mang vào lịch-sử thật đáng kể.
Goethe* từng thốt lên: Những gì đã xẩy ra
quanh tôi làm tôi phải cúi đầu. Đúng thế, chỉ qua Ki-tô giáo mà hệ-thống
chăm-sóc bệnh nhân, cưu-mang người yếu kém và cả một hệ-thống tổ chức từ-thiện
đã hình thành. Cũng nhờ Ki-tô giáo mới phát-sinh sự tôn-trọng con người trong
mọi hoàn-cảnh. Một sự kiện lịch-sử đáng ghi nhận: Sau khi chấp-nhận Ki-tô giáo,
việc đầu tiên hoàng-đế Constantinus thấy phải thi-hành là cải-tổ luật-lệ, để
chủ-nhật thành ngày nghỉ cho mọi người và cho người nô-lệ được hưởng một số
quyền-lợi.
Tôi cũng có thể đan-cử trường-hợp Athanasius, vị giám-mục
lỗi-lạc thành Alexandria trong thế-kỷ thứ tư. Qua kinh-nghiệm bản-thân ngài tả
lại cảnh khắp nơi các bộ-lạc cứ nhăm-nhe dao búa kình-chống nhau, mãi tới khi
trở thành ki-tô-hữu, họ mới biết chung sống hoà-bình. Nhưng đó là những
đặc-tính không do cơ-cấu của một thể-chế chính-trị tự tạo nên. Chúng cũng có
thể bị sụp-đổ, như ta ngày nay vẫn thấy.
Ở đâu con người xa rời đức tin, ở đó những tệ-nạn
khủng-khiếp thời ngẫu-tượng sẽ ồ-ạt trở lại. Tôi tin rằng, ta có thể nhận thấy
rõ Thiên Chúa đi vào lịch-sử một cách nói được là mong-manh hơn chúng ta
mong-muốn. Nhưng đó lại là câu trả lời cuả Ngài đáp lại tự-do của ta. Một khi
ta muốn và chấp-nhận Thiên Chúa tôn-trọng tự-do của ta, ta cũng phải học
tôn-trọng và quí-chuộng tính-cách mong-manh của hành-động Ngài.
Ki-tô giáo ngày nay đã
bành-trướng rộng-rãi trên khắp thế-giới như chưa bao giờ từng thấy. Nhưng ơn
cứu-độ cho thế-gian đã không đương-nhiên đồng-bộ với nhịp tiến đó.
Đúng vậy, sự lan rộng tính được bằng con số tín-hữu
ki-tô không đương-nhiên dẫn đến sự cải-thiện thế-gian, vì không phải tất-cả
những ai mang tên ki-tô-hữu đều thực-sự là ki-tô-hữu. Ki-tô giáo chỉ ảnh-hưởng
gián-tiếp lên khuôn mặt trần-gian qua con người, qua tự-do của họ. Sự dữ cũng
không đương-nhiên bị khai-trừ khi ta thành-lập một hệ-thống chính-trị hay
xã-hội mới.
Sự hiện-hữu của sự dữ
mang ý-nghĩa gì đối với ơn cứu-rỗi hay không có ơn cứu-rỗi?
Sự dữ có thế-lực qua ngã tác-động lên tự-do con người và tạo
nên những cơ-cấu riêng của nó. Rõ-ràng có những cơ-cấu của sự dữ. Chúng đè-nén
con người, chúng có thể ngăn-chặn tự-do và như vậy tạo nên bức tường cản bước
Thiên Chúa đi vào trần-gian. Qua đức Kitô, Thiên Chúa thắng sự dữ.
Điều này không có nghĩa là từ nay tự-do con người hết bị sự dữ thử-thách, nhưng
có nghĩa là Chúa sẵn-sàng đưa tay cho ta nắm và dẫn ta đi, song Ngài không
ép-buộc ta.
Như thế có nghĩa là
Thiên Chúa có quá ít quyền-lực trên dương-thế?
Dù sao Ngài cũng không muốn sử-dụng quyền-lực theo cách như
ta tưởng. Đó chính là vấn-nạn mà ông đã gợi lên lúc đầu và tôi cũng muốn đặt ra
cho cái gọi là "tinh-thần thế-gian": Tại sao Thiên Chúa bất lực như
vậy? Tại sao Ngài chỉ cai-trị một cách yếu-ớt lạ-lùng như một kẻ bị đóng đinh
trên thập-giá, như một kẻ thất-bại? Nhưng rõ ràng đó là cách Ngài muốn cai-trị
và xử-dụng quyền-lực. Còn như dùng quyền-lực qua cưỡng-bức, áp-đặt và bạo-lực
lại không phải là cách cuả Ngài.
Xin trở lại câu hỏi
lúc đầu: Tình-trạng thế-giới, diễn-tả qua cách nói "một tang lễ
ma-quái" của thế-kỷ 20, không nhất-thiết làm ta hoảng-sợ sao?
Là tín-hữu Ki-tô chúng ta biết trần-gian luôn nằm trong bàn
tay Thiên-chúa. Ngay cả khi con người tháo bỏ dây liên-kết với Ngài và lao vào
huỷ-diệt, trong tình-trạng thế-giới đổ-nát đó Chúa sẽ ra tay làm lại một khởi
đầu mới. Phần chúng ta, trong niềm tin vào Ngài, chúng ta hành-động để con
người không xa lià Ngài và gắng làm hết sức để thế-gian có thể tồn-tại như
kỳ-công và con người như thụ-tạo của Ngài.
Tuy nhiên một viễn-tượng hết sức bi-quan vẫn có thể xẩy ra,
trong đó sự vắng bóng Thiên Chúa – Metz gọi đó là "cuộc khủng-hoảng Thiên
Chúa" – trở nên trầm-trọng đến nỗi khiến con người rơi vào vực thẳm
luân-lí và thế-giới rơi vào vực thẳm đổ-nát, đứng trước bờ tận-thế. Nguy-nan đó
chúng ta phải tính tới. Nhưng cho dù viễn-tượng tận-thế kia có xẩy ra, thì
Thiên Chúa vẫn còn đó để bảo-vệ những ai tìm Ngài; kết-cục tình yêu vẫn mạnh
hơn hận-thù.
Gio-an Phao-lô II
có nhận-xét: "Vào cuối thiên niên-kỷ thứ hai Giáo-hội lại trở thành
Giáo-hội của các vị tử-đạo". Thưa hồng-y, chính ngài cũng làm một bản
thống-kê tương-tự: "Nếu chúng ta không tìm lại cái phần làm nên căn-tính
ki-tô giáo của mình, chúng ta sẽ không đứng vững trước những thử-thách của
thời-đại".
Chúng ta đã trao-đổi về đề-tài này : Giáo-hội sẽ mặc
lấy những hình-thức khác, Giáo-hội sẽ bớt phần đồng-hóa với những cộng-đồng
lớn, sẽ mặc lấy hình-thái Giáo-hội của thiểu-số, sẽ sinh-động qua những nhóm
nhỏ với xác-tín vững-mạnh, sống và hành-động theo niềm tin. Chính qua cung-cách
này, nói theo Thánh-kinh, Giáo-hội sẽ là "muối cho đời". Trong
tình-thế xáo-trộn này tính-chất bền-bỉ - nghĩa là cái cốt-lõi không thể bị
tiêu-diệt nơi con người – lại trở nên quan-trọng hơn và những nguồn sức mạnh
nâng-đỡ con người lại càng cần-thiết hơn bao giờ hết.
Bởi thế, một đàng Giáo-hội cần có sự uyển-chuyển để có thể
chấp-nhận những tư-tưởng và trật-tự biến-đổi trong xã-hội cũng như cởi bỏ những
liên-hệ ràng-buộc trước đây. Đàng khác, Giáo-hội chính vì thế cần có sự
trung-kiên để duy-trì cái cốt-lõi làm nên con người, cái làm cho con người
sống-còn, cái bảo-vệ phẩm-giá con người. Giáo-hội cần giữ vững điểm này và mở
đường cho con người hướng lên cao, hướng vể Thiên Chúa, vì sức mạnh hòa-bình
trên dương-thế chỉ đến từ nơi cao đó.
Ngày nay nhiều người
cho rằng, trải qua bao thế-kỷ Giáo-hội đã hành-động không đúng với mạc-khải.
Giáo-chủ đã nêu lên sự bất tương-dung nhân danh tôn-giáo và sự đồng-loã trong
tội ác phạm đến nhân-quyền như thí-dụ điển-hình cho "vực thẳm
tội-lỗi" của 2000 năm lịch-sử Ki-tô giáo. Ngày nay Giáo-hội hay nói đến
lầm-lỗi của mình đối với người Do-thái cũng như đối với phụ-nữ. Trước đây
những thú-nhận như thế bị coi là làm giảm uy-quyền. Liệu Giáo-hội có phải lên
tiếng bằng sự cởi-mở không che đậy hơn nữa về những lỗi-lầm ngay trong lòng
Giáo-hội qua dòng lịch-sử?
Tôi thiết-nghĩ sự thành-thực luôn là một nhân-đức nền-tảng,
bởi cũng vì nhờ nó chúng ta nhận biết rõ hơn đâu là Giáo-hội và đâu không phải
là Giáo-hội. Trong ý-nghĩa này sự thẳng-thắn mới đây - nếu muốn dùng kiểu nói
này - một sự thắng-thắn thú-nhận không che đậy những khía-cạnh đen-tối của
lịch-sử Giáo-hội, là một hành-động quan-trọng để chứng-tỏ sự thành-tâm và
trung-thực của mình. Nếu sám-hối, xét mình, nhận ra và lãnh lấy chính tội-lỗi
mình là cái cốt-lõi của một ki-tô-hữu, bởi chỉ qua đó tôi mới thành-thực với
chính tôi và trở nên công chính, thì Giáo-hội như một tác-nhân tập-thể cũng
không thể tránh-né việc mổ-xẻ, nhìn ra và nhận lãnh lỗi-lầm mình. Một
"thánh-vịnh sám-hối" của Giáo-hội quả thực cần-thiết để Giáo-hội
chứng-tỏ mình thành-thực trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người.
Nhưng một điểm khác cũng quan-trọng không nên bỏ qua. Đó là
không nên quên rằng, mặc cho lỗi-lầm và yếu-đuối, lời Chúa vẫn luôn được
loan-truyền và các bí-tích vẫn tiếp-tục được ban-phát, và nhờ vậy sức mạnh ơn
cứu-độ vẫn tác-động chặn đứng sự dữ. Chính vào lúc Ki-tô giáo như cục than hồng
tàn-lụi và biến thành tro bụi thì thần-lực Thiên Chúa lại dấy lên những
bừng-khởi đạo-đức mới. Chẳng hạn vào thế-kỷ 10, khi các giáo-triều sa-sút
thê-thảm và người ta những tưởng Ki-tô giáo tại Rôma tới thời mạt-vận, thì
chính vào thời đó tinh-thần dòng tu lại bừng lên và một động-lực hoàn-toàn mới
của niềm tin nảy sinh. Quả thực có sự sa-sút trong lòng Giáo-hội hôm nay, Ki-tô
giáo còn đó trên hình thức, nhưng chẳng được mấy ai sống thực niềm tin đó. Tuy
nhiên, sự hiện-diện của đức Ki-tô vẫn âm-thầm tác-động để đem lại sự đổi mới
vào một lúc không chờ không đợi.
Xem ra gánh lịch-sử đè
nặng trên vai Giáo-hội. Thí-dụ vào dịp kỷ-niệm 500 năm Cô-lôm-bôkhám-phá
Mỹ châu người ta có dịp chứng-kiến những giao-động tình-cảm chống lại cuộc
truyền đạo Ki-tô sôi-sục đến độ có thể tưởng như vấn-đề mới xẩy ra hôm qua.
Vấn-đề này xảy ra một phần do phán-đoán vơ đũa cả nắm, không
có chứng-cớ lịch-sử, nhưng chỉ do những giao-động tình-cảm tức-thời. Đã có
những lầm-lỗi xẩy ra, kể cả những lỗi-lầm trầm-trọng, điều đó tôi không
chối-cãi. Nhưng, về lãnh-vực này, mới đây đã có những nghiên-cứu lịch-sử cho
thấy đức tin và giáo-hội Công giáo cũng đã là nhân-tố chống lại sự chà-đạp
thô-bạo lên văn-hóa và con người bản-xứ do những kẻ thực-dân đầy lòng tham gây
nên. Phao-lô III và những vị giáo-chủ kế tiếp đã mạnh-mẽ bảo-vệ quyền-lợi
dân bản-xứ và đã ban-hành những luật-lệ tương-ứng. Vương-triều Tây-ban-nha, đặc-biệt
là hoàng-đế Ca-rô-lô V, cũng ban-hành những khoản luật - mặc dầu một phần không
được thực-thi - làm vẻ-vang danh-dự triều-đình, vì những luật này đề cao
quyền-lợi dân bản-xứ, công-nhiên coi họ là đồng loại và như vậy có đầy-đủ
nhân-quyền. Trong thế-kỷ huy-hoàng này của Tây-ban-nha các nhà thần-học và
chuyên-gia giáo-luật đã khởi-xướng lên ý-niệm nhân-quyền. Về sau nhiều người
lấy lại ý-niệm này, nhưng vương-triều Victoria của Tây-ban-nha đi tiên-phong
tinh-luyện ý-niệm đó.
Những nhà truyền giáo lỗi-lạc thuộc dòng Phan-sinh và
Đa-minh thực-sự chứng-tỏ là những trạng-sư bênh-vực con người. Không phải
chỉ có Bartholomé de las Casas*, nhưng còn nhiều nhân-vật không tên tuổi
khác nữa. Người ta mới khám-phá ra một khía-cạnh hi-hữu của lịch-sử truyền
giáo. Những nhà truyền giáo dòng Phan-sinh tiên-khởi tại Mễ-tây-cơ - còn nặng
ảnh-hưởng thần-học thần-linh của thế-kỷ XIII - đã rao truyền một hình-thức
Ki-tô giáo đơn-sơ, nhẹ phần định-chế và đi thẳng vào lòng người. Không thể có
những loạt người uà theo Ki-tô giáo như ta thấy ở Mễ-tây-cơ, nếu họ không
cảm-nhận được đức tin như một sức mạnh giải-thoát; kể cả giải-thoát khỏi những
tục thờ kính trước đó. Vì dân bản-xứ bị đàn-áp, muốn thoát gông-cùm, ngả theo
Tây-ban-nha, nên Mễ-tây-cơ mới bị chinh-phục. Nhìn tổng-quát mới thấy đó là cả
một bức tranh không đơn-giản, trong đó có những lỗi-lầm ta không được phép bỏ
qua. Nếu lúc đó không có một thế-lực bênh-vực và giải-thoát để những nhóm dân
bản-xứ còn tồn-tại như ngày nay tại Trung và Nam Mỹ , thì có lẽ lịch-sử đã
xoay-chuyển khác hẳn.
Tôi thiết nghĩ trong trường-hợp này người ta đã hành-động
theo nguyên-tắc cứ để mọi chuyện tự trôi theo dòng thời-gian. Không ai thấy cần
lên tiếng công-khai phục-hồi danh-dự. Chỉ vào thời Ánh-sáng vụ Galilêi mới được
làm nổi cộm lên như một thí-dụ điển-hình cho những tranh-chấp giữa Giáo-hội và
khoa-học. Cuộc tranh-chấp mang nặng ý-nghĩa lịch-sử, nhưng thoạt đầu không
gây-cấn, giật-gân gần như một huyền-thoại. Thời Ánh-sáng cố trình-bầy sự-kiện
như một triệu-chứng bệnh-hoạn về phong-cách Giáo-hội đối-xử với khoa-học. Do đó
vụ Galilêi được đánh bóng như tiêu-biểu cho thái-độ bài khoa-học và cổ-lỗ của
Giáo-hội. Dần hồi người ta nhận ra đây không chỉ đơn-thuần là câu chuyện của
thời xa-xưa, nhưng là vấn-đề đang day-dứt lương-tâm hôm nay, vì thế cần phải
giải-quyết một lần cho minh-bạch.
Lịch-sử đã xoay-chuyển
ra sao nếu không có Giáo-hội, câu hỏi này không ai có thể trả lời được. Trong
khi đó có thể dễ-dàng nhận ra đức tin Ki-tô giáo đã giải-thoát và làm cho
thế-giới trở nên văn-minh qua sự phát-triển nhân-quyền, nghệ-thuật, giáo-dục
thuần-phong mỹ-tục. Không thể hình-dung ra Âu châu nếu không có những tiến-bộ
này. Nhà báo Do-tháiFranz Oppenheimer viết: "Những nền dân-chủ đã nảy sinh
trong thế-giới Do-thái - Ki-tô giáo tây phương. Lịch-sử phát-triển của những
nền dân-chủ này là điều-kiện nền-tảng cho thế-giới đa-nguyên chúng ta. Nhờ
lịch-sử này chúng ta có những tiêu-chuẩn để đo lường, phê-phán và sửa sai những
nền dân-chủ của ta". Và chính ngài cũng lưu-ý rằng, sự tồn-tại những nền
dân-chủ có phần liên-quan tới sự tồn-tại những giá-trị ki-tô giáo.
Tôi chỉ có thể thừa-nhận câu nói của Oppenheimer. Ngày nay
ta biết rằng mẫu-mực dân-chủ đã nảy sinh từ nội-qui dòng tu với những khoản
luật dòng và việc bầu-cử nội-bộ của họ. Thể-chế chính-trị đã rút ra từ đó
ý-niệm luật-pháp áp-dụng đồng-đều cho mọi công-dân. Phải công-nhận trước đó đã
có khuôn-mẫu quan-trọng của nền dân-chủ Hy-lạp, nhưng nó đã sụp-đổ với
thần-minh và phải mất công xây-dựng lại. Hiển nhiên là hai nền dân-chủ
tiên-phong ở Mỹ và Anh đều dựa trên sự chấp-nhận những giá-trị Ki-tô giáo và
chúng chỉ có thể vận-hành trên căn-bản đồng-thuận về những giá-trị. Không có sự
đồng-thuận về giá-trị này, chúng sẽ tan-rã và sụp-đổ. Như vậy, trên bình-diện
lịch-sử, ta có thể làm được bản thống-kê tích-cực về Ki-tô giáo, vì nó đã làm
nẩy sinh một mối liên-hệ mới giữa người với người cũng như đã kiến-tạo nên một
nền nhân-bản mới. Nền dân-chủ cổ Hy-lạp dựa vào sự bảo-hộ linh-thiêng của thần-linh.
Nền dân-chủ ki-tô của Thời-mới dựa vào tính-chất linh-thiêng của những giá-trị
được bảo-đảm từ đức tin Ki-tô giáo, những giá-trị triệt-tiêu tính-cách độc-tài
của đa-số. Những gì trước đây ông nói về bản thống-kê của thế-kỷ 20 cũng cho
thấy rằng nếu như ta vứt bỏ Ki-tô giáo ra khỏi thế-giới này, thì những
thế-lực cổ-xưa của sự dữ - đã từng bị Ki-tô giáo khai-trừ - sẽ đột-nhập
thế-giới trở lại. Dưới cái nhìn thuần lịch-sử ta có thể khẳng-định: Nếu không
có nền-tảng tôn-giáo, nền-tảng "linh-thiêng", thì không có dân-chủ.
Newmann, vị hồng-y
người Anh, có lần nhận-xét về sứ-mạng truyền giáo của Giáo-hội: "Chỉ nhờ
có ki-tô-hữu, nhờ màng lưới cộng-đoàn rải-rác khắp năm châu, nên thế-giới
chưa bị huỷ-diệt. Sự tồn-tại của thế-giới gắn chặt với sự tồn-tại của Giáo-hội.
Nếu Giáo-hội ngã bệnh, thế-giới sẽ than khóc thân-phận mình."
Có thể người ta cho nhận-xét trên là quá đáng, nhưng tôi
nghĩ chính lịch-sử những thể-chế độc-tài vô thần lớn trong thế-kỷ chúng ta như
chế-độ Đức quốc-xã và chế-độ cộng-sản, đã minh-chứng cho thấy là sự sụp đổ của
Giáo-hội, sự phá-sản và vắng bóng đức tin như lực thúc-đẩy quan-trọng đưa đến
hành-động, quả thực đã kéo theo thế-giới xuống vực thẳm. Trước kia thế-giới hỗn
thần dù sao cũng còn đôi nét cao-đẹp, và nối-kết với thần-minh-cũng có nghĩa
thừa-nhận những giá-trị uyên-nguyên, giúp con người kìm-hãm được cái dữ, chứ
ngày nay, một khi kháng-lực chống lại cái dữ không còn nữa, thì sự sụp-đổ hẳn
phải vô cùng bi-đát.
Qua hiểu-biết dựa trên kinh-nghiệm ta có thể quả-quyết, khi
con người bỗng-nhiên bị lột hết sức mạnh luân-lí như được trình-bầy trong
giáo-lí Ki-tô giáo, con người sẽ chao-đảo như con tầu va vào băng-sơn, và sự
sống-còn của con người lúc đó thật mong-manh.
* Goethe
(1749-1832) nhà văn, kịch, thơ đa tài nổi tiếng ở Đức.
* Bartholomé de
Las Casas (1474-1566) một tay thực-dân người Tây-ban-nha, phản-tỉnh trở thành
linh-mục và là chiến-sĩ nhân-quyền tiên-phong cho dân bản-xứ.
* Galilêi (1564-1642)
nhà toán, vật-lí, thiên-văn ngườI Ý, bị giáo-hội Công giáo kết án và bắt rút
lại quan-điểm trái đất quay quanh mặt trời của ông, một quan-điểm trái với
quan-điểm của Giáo-hội thời đó.
Trích từ: „Muối
Cho Đời“, nguyên tác:"Salz der Erde“, của HY Joseph Ratzinger, trao đổi với
Peter Seewald, chuyển sang Việt ngữ: Trần Hoành và Phạm Hồng Lam.