LTS Tập San Định Hướng: Nhật báo Công Giáo Pháp "La Croix" ngày 18/1/1996 tường trình về chuyến viếng thăm chính thức của phái
đoàn hàng giáo phẩm Công Giáo Pháp đến Việt Nam. Phái đoàn do Tổng Giám Mục
Joseph Duval, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp hướng dẫn. Ký giả Frédéric Mounier
viết rằng: “Cho đến ngày 28-1, các Giám Mục Pháp sẽ gặp các Giám Mục Việt
Nam. Chuyến đi sẽ dẫn họ từ Hà Nội đến Huế. Dẫu có lời yêu cầu của họ, chính
quyền không cho phép họ đi đến miền Nam. Đức Cha Duval nhấn mạnh đến “bổn phận”
của Giáo Hội Pháp đối với Giáo Hội huynh đệ Việt Nam. “Giáo Hội này có gốc từ
Pháp, nó đã được thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Như
thế trong tinh thần của những người đã khai sáng nên Giáo Hội này, đây đúng là
một cuộc hành hương”. Mười Linh Mục của Hội Thừa Sai Balê đã chết tử đạo tại
đây, và đã được phong thánh...”.
Một bản văn tóm lược bức thư này đã được đăng trên nhật báo
La Croix vào tháng 6-1997. Nguyên bản bức thư được Nguyễn Đăng Trúc, dịch ra
Việt ngữ và đăng trên Tập San Định Hướng số 14, Winter
1997, Pp 120-124, Trung Tâm Văn Hóa
Nguyễn Trường Tộ:
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có phải phát xuất từ Pháp
không?
Ts Roland Jacques
Gs khoa trưởng Phân khoa Giáo Luật,
Đại học Công Giáo St. Paul, Ottawa, Canada
Thư gởi Đức Cha Joseph Duval,
Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp.
Kính Đức Cha,
Nhật báo Công Giáo La Croix ngày 18-1-1996 đã cho
phổ biến một bài báo ký tên Frédéric Mounier với tựa đề: “Giáo Hội Pháp quay
lại với Giáo Hội của Việt Nam”. Cơ hội để có bài báo này, một bài báo vốn rất
đáng lưu ý, là cuộc khởi hành của một phái đoàn Giám Mục Pháp đi Việt Nam. Ký
giả trích dẫn trong ngoặc kép những lời phát biểu mà Đức Cha đã nói để giải
thích lý do chuyến viếng thăm này: “Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó đã được
thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”.
Có lẽ người ta đã méo
mó những lời nói của Đức Cha, nhưng dẫu sao một sự xác quyết như thế là một sự
sai lầm lịch sử, và là một phương cách rất đáng tranh cãi để chuẩn bị khung
cảnh (thuận lợi) cho cuộc gặp gỡ.
Ai đã thành lập nên Giáo Hội Việt Nam?
Trả lời cho câu hỏi có tính cách lịch sử này, phải khẳng
định (sans ambiguité) rằng các vị thành lập, kể từ năm 1615, là những
giáo sĩ dòng Tên của tỉnh dòng Nhật Bản, tỉnh dòng có tính cách quốc tế trong
việc tuyển chọn (nhân sự) và thuần túy Bồ Đào Nha trong các mối lệ thuộc về mặt
pháp lý. Từ thế kỷ 16, các vị thừa sai Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha thuộc nhiều
Hội dòng tu khác nhau đôi lúc đã cố thử mở đường rao giảng Phúc Âm, nhưng phải
đợi đến phương pháp và sự kiên trì quyết tâm của các tu sĩ dòng tên để thấy
được những hy vọng đó được cụ thể hóa. Khi những vị người Pháp đầu tiên – các
tu sĩ Joseph Francis Tissanier và Pierre Jacques Albier – đi tàu biển đến xứ
này vào năm 1658, thì có gần 70 vị truyền giáo gồm tám quốc tịch đã tiếp tục
nhau đến trước, trong số đó có 35 vị người Bồ Đào Nha, 19 vị người Ý và 7 vị
người Nhật. Vào chính thời gian này, theo những ước tính lạc quan nhất, thì số
người Kitô hữu Việt Nam đã có trên 100.000 rải rác trong vài trăm cộng đoàn địa
phương. Những người giáo dân được đào tạo kỹ lưỡng hướng dẫn họ; (những
giáo dân này) có đủ khả năng để đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn nhất;
ngay từ các năm 1644 đến 1645, họ đã có những vị tử đạo của họ, đó là những vị
tử đạo đầu tiên với một danh sách rất dài.
Thật sự có sự kiện là lịch sử được viết theo lối người Pháp
cố nêu lên sự nghiệp to lớn này cho một mình cha Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên
cần thiết phải đặt lại con người truyền giáo nổi danh này trong khung cảnh thực
(của lịch sử). Ngài sinh tại Avignon, lãnh địa của Giáo Hoàng, cha Rhodes cũng
không phải người Pháp như trường hợp của thánh François de Sales, dẫu ngài
thuộc nền văn hóa Pháp như vị kia. Ngài vào Hội Dòng Chúa Giêsu tại Roma, và
chính lý lịch Roma này đã cho phép ngài được đi đến Đông Phương vào một thời kỳ
mà người Pháp không có quyền. Khi cha Rhodes đến Việt Nam vào năm 1624, các nền
tảng xây dựng Giáo Hội Kitô giáo đã được thành lập vững chắc tại vùng miền
Trung; công trạng lớn lao của ngài là đã đưa cuộc truyền bá Phúc Âm đến miền
Bắc xứ này; ở đây ngài chỉ lưu lại một thời gian duy nhất từ năm 1627 đến năm
1630 và đó là một thành quả lớn lao cho việc truyền giáo. Ngoài ra, tên tuổi
ngài được gắn liền với các công trình ngữ học về tiếng Việt nhờ những tác phẩm
ngài đã xuất bản tại Âu Châu vào năm 1651. Trong lãnh vực này cũng như trong
công việc truyền giáo nói riêng, sự thành công của ngài lệ thuộc vào công trình
của các vị tiên phong đi trước ngài. Đây là một công trình tập thể rõ rệt,
không thể gán cho công lao một xứ nào riêng, dẫu người Bồ Đào Nha gián tiếp đã
là những bậc thầy thi công, cũng như họ là những người thợ đông nhất.
Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris (MEP) và các vị tử
đạo
Khởi từ năm 1664 (miền Trung Việt Nam) và 1666 (miền Bắc),
Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris đã cống hiến một thế hệ thứ ba các người
thợ Phúc Âm, và đặc biệt những vị Giám Mục đầu tiên mà Roma muốn ban cho Giáo
Hội còn trẻ này. Tiếp đó, các Cha đường du Bac đã đóng một vai trò có
tầm vóc quan trọng to lớn không thể chối cãi được trong Giáo Hội của Việt Nam.
Nhưng không vào một thời kỳ nào bất kỳ, kể cả dưới thời thực dân Pháp trong các
năm của thập niên 1860, các vị truyền giáo Pháp không phải đã là những vị truyền
giáo duy nhất tại Việt Nam.
Tác giả bài báo đã nhắc lại rất đúng rằng mười
trong các vị truyền giáo Pháp đã bị giết chết vì đức tin trong thế kỷ 19; cách
đây vài năm, họ được tôn vinh vào bậc thánh tử đạo cùng một lúc với 96 vị tử
đạo tại Việt Nam. Nhưng khi nói đến các vị truyền giáo ngoại quốc chịu tử đạo,
có lẽ đúng hơn đừng cho người ta hiểu rằng người Pháp là những vị tử đạo đầu
tiên, và chỉ có người Pháp mà thôi. Trong nhóm các vị thánh đã được Giáo Hội
tôn vinh, thực ra có 11 vị dòng Đaminh gốc Tây Ban Nha, mà những vị lâu đời
nhất trong họ đã từng chịu án tử ngay từ năm 1745, nghĩa là 88 năm trước thánh
François Isidore Galelin. Còn những vị tu sĩ Dòng Tên thuộc tỉnh dòng Nhật bản,
họ lại đã đi trước tất cả các vị này, với hai vị tử đạo người Ý vào năm 1723,
ba vị người Bồ Đào Nha và một vị người Đức vào năm 1737; sự việc Roma đã chưa
chuẩn y sự tử đạo của hai nhóm này lệ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử, trong
đó các nạn nhân này không can dự gì.
Những người Công Giáo Việt Nam và nước Pháp
Trong các lời nói của Đức Cha, không phải chỉ có sự sai lầm
lịch sử là đáng tiếc. Thật vậy, hẳn nhiên là vô tình, nhưng Đức Cha đã mang lại
một thế dựa cho một luận cứ từng gây nên nhiều tai hại cho người Công Giáo Việt
Nam, và luận cứ đó từ mấy năm nay lại dấy lên lại một cách mạnh mẽ. Lời mỉa mai
của dân chúng hoặc cả đến các giáo sư đại học tên tuổi đã từng kịch liệt chứng
minh về sự thông đồng giữa Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp và sự lan tràn của đạo Công
Giáo vào Việt Nam. Nhiều đợt, người Công Giáo xứ này đã phải đương đầu với lời
luận tội như là “đảng” của người ngoại quốc, đóng vai kẻ thù của xứ sở. Hôm nay
cũng như hôm qua, ở Việt Nam và ở hải ngoại, nhiều người thuộc nhiều chủ trương
ý hệ khác nhau dường như muốn thấy tôn giáo nhập cảng từ trong các gói hành lý
của người Pháp (theo lối nói của họ) tan biến đi. Nếu ngày nay các mối liên hệ
của Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội anh em trên toàn thế giới còn gặp nhiều
khó khăn, một phần lớn cũng do sự nghi ngờ luôn hiện hành này, do chính sự bất
công lịch sử trong đó chúng ta, những người Pháp, không phải là bàn tay hoàn
toàn sạch.
Vào lúc lên đường đến Việt Nam, Đức Cha thấy phải khẩn
trương để nhắc lại cho Giáo Hội xứ này một nguồn gốc người Pháp nặng tính cách
giả thiết này hay không? Làm như thế, các lời nói của Đức Cha dường như lại đặt
Giáo Hội ấy trong một vị thế mãi lệ thuộc và mang nợ với Giáo Hội Pháp, hoặc
nước Pháp nói gọn như thế; các lời ấy củng cố cho những lập trường của những
người gièm pha Giáo Hội Việt Nam, và làm giảm uy thế những luận chứng của tất
cả những ai đang nỗ lực thiết định lại chân lý lịch sử hầu trả lại danh dự cho
Giáo Hội Việt Nam.
Kính thưa Đức Cha, không phải như thế, Giáo Hội Việt
Nam không phải phát sinh do người Pháp. Giáo Hội đó là con của Giáo Hội hoàn vũ
đúng theo mẫu mực điển hình của nó; trong thời còn non trẻ, Giáo Hội này đã
hưởng được sự cung ứng của nhiều nền văn hóa và truyền thống dị biệt, cho phép
nó dần hồi bước đến tuổi trưởng thành theo con đường đặc thù của mình. Ngày
nay, khi phải đương đầu với nhiều vấn đề, Giáo Hội này ưu tiên phải (tự củng
cố), xác định vị thế đặc thù của mình, tìm lại chỗ đứng trọn vẹn trong lòng của
xã hội Việt Nam và trong nền văn hóa có từ ngàn năm của Việt Nam, với những giá
trị mà Giáo Hội đó đang ôm sẵn và chúng cũng là những giá trị của Công Giáo
tính phổ quát.
Trong viễn tượng này, Giáo Hội Việt Nam không cần đến một quyền
lực đỡ đầu, nó không chờ đợi để được “bú mớm” bởi bất cứ ai. Người Công Giáo
Việt Nam chỉ cần tìm lại những mối liên hệ hiệp thông, chia sẻ và liên đới cụ
thể hơn và thiết thực hơn với những người Kitô hữu anh em trên thế giới, như
bao nhiêu người Công Giáo trong tất cả các xứ khác. Chúng ta hết lòng mong mỏi
rằng cuộc viếng thăm của phái đoàn Giám Mục Pháp sẽ cống hiến điều đó.