Một biến cố trong tháng 4 năm 1975 đã đưa Đức Giám Mục
Nguyễn Văn Thuận vào những ngày bi thảm nhất của cuộc đời ngài, nhưng cũng từ
đó ngài đã bước lên những địa vị quan trọng sau này trong Giáo Hội. Đây là một
biến cố mà chính tôi là người đã chứng kiến và theo dõi rất sát.
Vào tháng 4 năm 1975, khi đoán biết miền Nam sẽ rơi vào tay
Cộng Sản, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã 5 lần đề nghị Đức Khâm Sứ Tòa
Thánh tại Việt Nam, Henri Lemaitre, xin Tòa Thánh cử Đức Giám Mục Nguyễn Văn
Thuận làm Tổng Giám Mục Saigon với hy vọng sự khôn ngoan của ngài có thể đưa
Giáo Hội Việt Nam vượt qua những cơn khó khăn sắp đến. Cuối cùng, chiếu theo đề
nghị của Đức Khâm Sứ, ngày 23.4.1975 Tòa Thánh đã phong Đức Giám Mục Nguyễn Văn
Thuận làm Tổng Giám Mục hiệu tòa thành Vadesitana, và ngày 24.4.1975 cử ngài
giữ chức Phó TGM Giáo Phận Saigon với quyền kế vị. Đức TGM Nguyễn Văn Bình nghĩ
rằng nếu tình hình quá khó khăn, ngài sẽ từ chức và trao quyền lại cho Đức TGM
Nguyễn Văn Thuận. Đây là một biến cố đã đưa ngài vào một khúc quanh mới của
lịch sử dân tộc và lịch sử giáo hội,
Được tin nói trên, ngày 8.5.1975, một nhóm Linh mục đã gởi
đến Đức TGM Nguyễn Văn Bình một kiến nghị yêu cầu hoãn bổ nhiệm ĐGM Nguyễn Văn
Thuận làm TGM Phó. Kiến nghị này do các Linh mục sau đây ký tên: Trương Bá Cần,
Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm,
Hoàng Kim, Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Đinh Bình Định, Nguyễn
Thiện Toàn, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghị.
Mặc dầu có sự phản đối nói trên, ngày 12.5.1975 Tòa Tổng
Giám Mục Sài Gòn thông báo cho các giáo xứ trong giáo phận biết Đức Cha
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, đã được Tòa
Thánh bổ nhiệm làm TGM Phó với quyền kế vị của TGP Sài Gòn vào ngày 24.4.1975. Và
ngày 12.5.1975 Đức TGM Nguyễn Văn Thuận đã đến nhận nhiệm vụ mới.
CHIẾN DỊCH CHỐNG ĐỐI BÙNG LÊN
Ngay lập tức, các Linh mục Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ,
Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm và Hoàng Kim đã đến
Chủng Viện Thánh Giuse ở đường Cường Để, Sài Gòn, chất vấn Đức TGM Nguyễn Văn
Bình và yêu cầu Đức Phó TGM Nguyễn Văn Thuận từ chức.
Ngày 13.5.1975, một nhóm sinh viên công giáo đã xâm nhập Tòa
Giám Mục Saigon, căng lên những biểu ngữ sau đây:
- Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục của ai?
- Vì quyền lợi của Giáo Hội Việt Nam, yêu cầu Nguyễn Văn
Thuận từ chức.
- Không có hòa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui.
Ngoài ra, nhóm này cũng gởi đến Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre
một văn thư nói rằng “Mỹ - Thiệu và tay sai đã dẫm lên nhau chạy trốn, sự bổ
nhiệm một Giám Mục chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho
Giáo Hội mà cho cả dân tộc Việt Nam”. Họ yêu cầu Đức TGM Nguyễn Văn Thuận
từ chức để “tránh cho Giáo Hội và dân tộc Việt Nam những phiêu lưu vô vọng và
nguy hiểm”.
Ngày 14.5.1975, một đoàn biểu tình do Đoàn Phú Khánh cầm
đầu, đã xâm nhập Tòa Khâm Sứ của Tòa Thánh ở đường Hai Bà Trưng, trèo lên nóc
nhà hạ cờ Tòa Thánh xuống và căng biểu ngữ đòi Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre phải
cút đi. Họ đẩy một linh mục người Ba Lan và linh mục Trần Ngọc Thụ ra khỏi Tòa
Khâm Sứ. Trong khi đó, Linh mục Huỳnh Công Minh đứng chụp hình và Linh mục
Thanh Lãng phát bản tuyên cáo. Ngày 3.6.1975, họ đến phá Tòa Khâm Sứ một lần
nữa. Được tin này, các thanh niên công giáo thuộc giáo xứ Bùi Phát ở đường
Trương Minh Giảng đã kéo lên. Nhưng khi các toán thanh niên này mới đến đầu cầu
Trương Minh Giảng thì bộ đội đã xả súng bắn vào họ, một người bị chết và nhiều
người bị thương. Linh mục Vũ Bình Định, Phó xứ Bùi Phát đã bị bắt ngay sau đó.
Trước sự chống đối này, ngày 7.6.1975 Đức TGM Nguyễn Văn
Bình đã gởi cho các linh mục và giáo dân một văn thư, trong đó có những đoạn
như sau:
“Tôi đã hết sức ôn hòa, lắng nghe và thông cảm đồng thời
giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về
những sự việc trên. Nhưng tình trạng ấy chưa khả quan hơn.”
Sau đó, ngài kêu gọi:
“Tôi kêu gọi tất cả quý cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể
giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa Thánh La Mã”.
Ngày 18.6.1975, Đức TGM Nguyễn Văn Bình đã gởi cho Luật sư
Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một
văn thư yêu cầu ba điểm sau đây:
1) Triệt để thi hành Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách
10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi nơi toàn dân đối với chính
phủ.
2) Chấm dứt chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ, vu cáo các chức
sắc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
3) Chấm dứt ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất Đức
TGM Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc
Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực
kỳ lớn lao không lường được, về đối nội cũng như đối ngoại, cho Quốc Gia Dân
Tộc.
Ngày 27.6.1975, tại Dinh Độc Lập (cũ), Ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon - Gia Định công bố quyết định không cho Đức TGM Nguyễn Văn Thuận được hoạt động tại nhiệm sở mới. Ngày 1.7.1975 Ủy Ban Quân Quản gởi cho ngài một văn thư yêu cầu ngài phải trở lại nơi cư trú trước ngày 30.6.1975.
MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH GIAN KHỔ
Chiều 15.8.1975, Ủy Ban Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Thành
Phố Sài Gòn đã mở cuộc họp tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ) để
trình bày trường hợp của Đức TGM Nguyễn Văn Thuận. Có khoảng 350 giáo sĩ, tu sĩ
và đại diện các giáo xứ được mời đến nghe trình bày. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố
rằng chính phủ quyết định đưa TGM Nguyễn Văn Thuận trở về Nha Trang, nơi đương
sự cư ngụ trước ngày 30.6.1975, vì sự hiện diện của đương sự gây trở ngại cho
sự đoàn kết dân tộc.
Cũng trong ngày 15.8.1975, ngài được mời lên Dinh Độc Lập, ở
đó ngài bị bắt đưa về Nha Trang, nhưng không phải đưa về Tòa Giám Mục Nha
Trang, nơi ngài cư trú trước 30.4.1975, mà đưa đến giáo xứ Cây Vông thuộc xã
Diên Sơn, Huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Chính Đức TGM Nguyễn Văn Thuận đã
kể lại câu chuyện này như sau:
“Ngày 15 tháng 8 năm 1975, lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, tôi
được mời đến Phủ Tổng Thống, “Dinh Độc Lập”, vào lúc 14 giờ. Tại đó, tôi bị bắt
và đem đi trên một xe hơi có hai công an đi kèm. Và đó là khởi đầu cuộc phiêu
lưu của tôi.
“Trong lúc ấy, tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ bị gọi tới
Nhà Hát, với mục đích tránh mọi phản ứng của dân chúng đối với vụ bắt tôi.
“Trong cuộc hành trình, tôi bắt đầu ý thức rằng mình đang
mất tất cả. Tôi ra đi, với chiếc áo chùng thâm trong túi có một cỗ tràng hạt. Tôi
chỉ còn biết phó thác cho Chúa Quan Phòng. Nhưng giữa bao nhiêu lo âu ấy, tôi
vẫn thấy có một niềm vui lớn: “Hôm nay là lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời...”
“Từ lúc đó, người ta cấm gọi tôi là “Đức Cha...”. Tôi là ông
Nguyễn Văn Thuận. Tôi không được phép mang dấu hiệu gì về chức vị của tôi. Không
hề báo trước chút nào. Chúa yêu cầu tôi hãy trở về với điều cốt yếu.
“Trên đường dài 450 cây số, không có một ai. Tôi thực sự bị
bỏ rơi.
“Và trong sự xúc động trước hoàn cảnh mới, diện đối diện với
Chúa, tôi nghe thấy Chúa Giêsu hỏi Simon: “Simon, con bảo Thầy là ai?” (cf MT
16,15)”
Giáo xứ Cây Vong lúc đó có khoảng 1.200 giáo dân do Linh mục
Gioan Phùng Văn Như, 72 tuổi, làm chánh xứ. Trong thời gian bị quản chế tại
đây, ngài được Linh mục chính xứ và giáo dân mộ mến và giúp đỡ tận tình. Tuy
nhiên, vào 8 giờ sáng ngày 18.3.1976, công an đã đưa xe bịt bùng đến, đọc lệnh
bắt giam ngài, lý do bị bắt là vì ngài có những hành vi phản động dinh líu đến
vụ nhà thờ Vinh Sơn, mặc dầu lúc đó ngài đang bị quản thúc ở Cây Vong,
cách xa nhà thờ Vinh Sơn hơn 400 cây số. Khi ngài bị đẩy lên xe, mọi người đều
chảy nước mắt và ai cũng âm thần đọc kinh cầu nguyện cho ngài. Ngài bị đưa vào
giam ở trại Phú Khánh. Ngài đã mô tả lại thời gian bị giam tại trại này như
sau:
“Nhà tù nơi tôi bị giam trong những tháng đầu tiên tọa lạc
tại khu vực có nhiều tín hữu nhất trong thành phố Nha Trang, nơi tôi đã làm
giám mục trong 8 năm.
“Từ phòng giam, sáng tối tôi đều nghe thấy tiếng chuông nhà
thờ ngân vang, và suốt ngày, tôi nghe những tiếng chuông của bao nhiêu giáo xứ
và nhà dòng. Tôi ước mong được dời đi thật xa, lên miền núi để khỏi phải nghe
những tiếng chuông ấy.
“Ban đêm, trong cái thinh lặng của thành phố, tôi nghe lại tiếng
sóng Thái Bình Dương mà tôi đã từng nghe thấy từ văn phòng tòa giám mục của
tôi. Không ai biết tôi ở đâu, mặc dù nhà tù chỉ cách nhà tôi vài cây số. Tôi
sống tình trạng thật vô lý!”
Lữ Giang