Trước hết, phụ huynh cần phải hiểu điều này, đứa trẻ có mắc
chứng „Tự Kỷ“ hay không, cái đó không phải quyết đoán của cha mẹ, hoặc ý kiến
của một vài người bạn. Cũng như mọi chứng bệnh khác từ thể lý đến tâm lý và tâm
thần việc chẩn đoán phải dựa vào những khảo cứu chuyên môn và do những người có
thẩm quyền chuyên môn quyết định. Trường hợp bệnh nhân „Tự Kỷ“ phải do những
bác sĩ tâm lý, thần kinh học, và dĩ nhiên cũng phải dựa vào kết quả của những
trắc nghiệm về tâm lý và thể lý nữa.
Những con số thống kê:
Thống kê gần đây cho biết cứ 88 em bé sinh ra thì có 1 em
mang chứng Tự Kỷ.
Cứ 54 em bé trai thì 1 em mang chứng Tự Kỷ.
Trẻ trai nhiều hơn trẻ gái 3-4 lần.
Từ năm 2006 đến 2008, số bệnh nhân tự kỷ tăng 23%, và từ năm
2002 tới nay, con số tăng 78%.
Riêng tại California, con số những bệnh nhân Tự Kỷ đã tăng
12 lần trong vòng hai thập niên qua
Tự Kỷ là gì?
Từ “tự kỷ” không biết từ đâu phát xuất và do ai dịch, nhưng
chắc chắn nó không phải là từ tương xứng với từ “Autism”. Có thể nó diễn tả
những triệu chứng của chứng Autism.
Để dễ hiểu thế nào là chứng Tự Kỷ, ta cần phải hiểu rằng hội
chứng đó chỉ là một trong các hội chứng của Chứng Tự Kỷ Phổ Quát “Autistic
Spectrum Disorder” (ASD). Đây là một hội chứng liên quan đến những hành vi và
thái độ dựa trên ba yếu tố:
- Giới hạn về xã hội tính (impairment in socialization).
- Thiếu tiểu chuẩn về đối thoại bằng tiếng hay không tiếng
nói (atypical verbal and nonverbal communication).
- Những hạn chế về sở thích và những hành động quán tính
(restricted patterns of interest and stereotyped actions).
Những yếu tố trên được thể hiện qua đời sống của một em nhỏ
hay người lớn nhiều hay ít, trầm trọng hay ít trầm trọng tùy vào từng trường
hợp. Từ đó, Chứng Tự Kỷ được phân loại thành ba cấp độ hay ba trường hợp đặc
thù:
- Autistic Disorder (Bệnh Tự Kỷ)
- Asperger’s Disorder: Chứng liên quan đến Tự Kỷ. Cũng có
thể coi đây là Tự Kỷ nhẹ, thường xảy ra cho trẻ em nam và con trai nhiều hơn.
- Pervasive Developmental Disorder - Not Otherwise Specified
(Chậm Phát Triển Toàn Diện - Không mang đặc tính nổi bật).
Chẩn đoán:
Cho đến nay khoa học vẫn chưa xác định được nguyên nhân đưa
đến chứng Tự Kỷ . Có những khảo cứu cho là do thực phẩm như tôm, cá, hoặc sò ốc
mang nhiều chất chì. Cũng có những khảo cứu cho là do thuốc chích ngừa. Nhưng cả
hai lý do này chưa được xác nhận. Gần đây nhất, một cuộc khảo cứu rộng lớn hơn
đã cho biết thêm xác xuất trẻ em mắc Tự Kỷ vì người cha già nhiều hơn người cha
trẻ, và người mẹ mập phì nhiều hơn người mẹ nhẹ nhàng, thon thả. Tuy nhiên, vẫn
chỉ là giả thiết.
Lý do thì chưa biết, nhưng những triệu chứng thì có thể tìm
thấy qua những thái độ và hành vi của các em, trong đó bao gồm những nhận xét
về sinh hoạt hằng ngày. Những khảo cứu về sự phát triển. Phỏng vấn cha mẹ, hay
những người có trách nhiệm. Đặc biệt nhấn mạnh đến những yếu tố sau:
- Communication - Receptive/Expressive and Pragmatic
language. (Ngôn ngữ - ngôn ngữ đón nhận/diễn tả và ngôn ngữ thực dụng),
- Socialization. (Xã hội tính),
- Fine and Gross Motor Development. (Phát triển hoạt động
thô sơ và tinh tế),
- Self-help/Daily living skills: Eating, dressing, hygiene.
(Khả năng tự lo liệu/khả năng trong cuộc sống thường ngày: ăn, mặc, hoặc vệ
sinh),
- Social-Emotional Functioning. (Tác động xã hội-tình cảm).
Để hội đủ điều kiện cho việc chẩn đoán, một em nhỏ hay một
em tuổi vị thành niên phải có ít nhất 3 trong những khuyết điểm sau:
Mobility (Di chuyển): Khả năng di chuyển và đi đứng. Em
bé không có khả năng bò, đứng hoặc đi. Hoặc những trường hợp không có khả năng
di chuyển. Thí dụ, bị bại liệt (cerebral palsy) phải ngồi xe lăn. Tiêu chuẩn
này được dùng để thẩm định các hội chứng liên quan đến thể lý hơn là tâm
lý.
Những điều kiện về khả năng di chuyển được dùng để các nhà
chuyên môn có thể xác định sự chậm phát triển bao gồm:
1. Em bé biết lật lúc mấy
tháng tuổi? Hay không lật?
2. Em bé biết bò lúc mấy
tháng tuổi? Hay không bò vì lý do gì?
3. Em bé ngồi lên một
mình lúc mấy tháng tuổi? Hay không ngồi vì lý do gì?
4. Em bé đứng lên một
mình lúc mấy tháng tuổi? Hay không đứng được vì lý do gì?
5. Em bé đi một mình lúc
mấy tháng tuổi, hoặc mấy tuổi?
6. Em bé biết dùng thìa,
muỗng để xúc đồ ăn một mình lúc mấy tháng tuổi hoặc mấy tuổi?
7. Em bé biết cầm ly nước
uống một mình lúc mấy tháng tuổi hoặc mấy tuổi?
8. Em bé nói hay ú ớ
tiếng đầu tiên, thí dụ, ba, má… lúc mấy tháng tuổi hoặc mấy tuổi?
9. Em bé nói hay ú ớ được
1, 2, hoặc 3 chữ, thí dụ: ăn cơm, đói bụng, đi ngủ... lúc mấy tháng tuổi hoặc
mấy tuổi?
10. Em bé nói được nguyên câu, thí dụ: con đói
bụng. Con thích đi chơi… lúc mấy tuổi? Hoặc không nói vì lý do gì?
11. Em bé tự mình đi vệ sinh, gọn gàng, sạch sẽ
lúc mấy tuổi? Hoặc đến nay vẫn còn phải nhờ cha mẹ giúp sau khi đi vệ sinh…
Self-Care (Tự săn sóc):
Với một em bé mới 18 tháng tuổi
hay 2 tuổi tiêu chuẩn này không được áp dụng, nhưng đối với những em lớn từ 5
hay bẩy tuổi trở lên thì một em ở tuổi này mà vẫn còn đái dầm, không biết dùng
phòng vệ sinh, hoặc không tự đi cầu lấy một mình là có vấn đề. Một cách tương
tự, em không biết mặc quần áo, không biết cởi quần áo, không biết tắm rửa, gội
đầu, đánh răng và rửa mặt…
Khả năng tự săn sóc gồm:
1. Em có khả năng đi vệ
sinh một mình, sạch sẽ mà không cần nhắc, không phải coi lại, hoặc không phải
giúp sau đó không?
2. Em có khả năng tắm rửa
một mình, sạch sẽ mà không cần phải nhắc, không phải coi lại, hoặc không cần sự
giúp đỡ không?
3. Em có khả năng gội
đầu, chải tóc, sạch sẽ mà không cần phải nhắc, không phải coi lại, hoặc không
cần giúp đỡ không?
4. Em có khả năng tự mình
đánh răng sạch sẽ mà không cần phải nhắc, không phải coi lại, hoặc không cần
phải giúp đỡ không?
5. Em có tự mình mặc quần
áo, cởi quần áo, thắt dây giầy, đội mũ, nón mà không cần phải nhắc, không cần
phải coi lại, hoặc giúp đỡ không?
6. Em có thể tự mình chọn
những quần áo sạch sẽ, xứng hợp mầu sắc mà không cần phải nhắc, không cần phải
coi lại, hoặc giúp đỡ không?
7. Em có khả năng dọn cho
mình một món ăn đơn giản như luộc trứng, làm tô mì gói mà không cần phải nhắc,
không cần phải coi lại, hoặc giúp đỡ không?
8. Em có thường xuyên
giúp dọn dẹp nhà cửa, xếp lại đồ chơi sau khi chơi không?
9. Em có biết dùng phương
tiện di chuyển công cộng, xe bus không?
10. Em có biết dùng phone để nói chuyện và trả
lời phone của cha mẹ hay bạn bè không?
11. Em có biết dùng tiền, biết mua một món hàng
nhỏ, một thức ăn tự mình không?
12. Em có biết giá trị đồng tiền, có biết trả
tiền, đổi hay thối tiền không?
Receptive/Expressive Language (nghe và diễn tả ngôn ngữ):
Không
có khả năng ngôn ngữ gồm việc nói, nghe, và hiểu. Thí dụ, một em 18 tháng tuổi
mà không biết nói tiếng “ba”, “má”, “chim”, hay “gà”… Hoặc một em từ 2 tuổi trở
lên mà không biết nói những tiếng thông thường như “ăn cơm”, “đi ngủ”, “đói
bụng”… Và trên 3 tuổi mà không biết dùng nguyên câu để nói chuyện với cha mẹ,
phụ huynh, thí dụ, “Con đói bụng”, “Con muốn ăn cơm”, hay những câu nói rất đơn
giản và thông thường.
Hoặc các em không thể dùng những từ riêng lẻ, những mệnh đề
đơn giản hay nguyên câu để trao đổi và diễn tả những ước muốn, suy nghĩ. Không
có khả năng hiểu, khả năng diễn tả những ý nghĩ trìu tượng liên quan đến cảm
xúc và ước muốn. Thí dụ, cảm xúc đau đớn, xót xa, hay vẻ đẹp. Và không có khả
năng làm theo những hướng dẫn hoặc đòi hỏi những công việc thường ngày.
Sau đây là những vấn đề liên quan đến khả năng ngôn ngữ:
1. Em có hay lập đi, lập
lại những câu mà em nghe không?
2. Em có biết dùng câu
hỏi để hỏi những gì em muốn hay phải chỉ bằng tay, hoặc kéo tay cha mẹ, phụ
huynh đến chỗ hoặc đồ vật em muốn?
3. Em có khả năng dùng
những từ đơn giản, cụm từ, hay nguyên câu để trao đổi và nói với cha mẹ, phụ
huynh, và người phụ trách không?
4. Kho tàng ngữ vựng của
em được bao nhiêu chữ?
5. Những câu nói của em
có rõ ràng về âm thanh, và rõ ràng về ý nghĩa không?
6. Em có khả năng kể một
câu chuyện ngắn, đơn giản, thí dụ, chuyện xảy ra cho em ở trường… không?
7. Em có khả năng hiểu
được những câu chuyện thường ngày giữa cha mẹ và anh chị em chung quanh em
không?
8. Em có khả năng làm một
việc theo mệnh lệnh của cha mẹ, phụ huynh hay người có phận sự, thí dụ, bỏ cái
tã vào thùng rác. Lượm cái rác rồi bỏ vào thùng rác… không?
Self-Direction (Tâm tính):
Đối với một em nhỏ 18 tháng
tuổi hoặc 2 tuổi, khả năng diễn tả và tiếp xúc với những người chung quanh phải
được thẩm định khác so với những em 5 hoặc 6 tuổi trở lên. Tùy vào từng lứa
tuổi, cha mẹ hay phụ huynh cần lưu tâm đến những biến đổi này. Thí dụ:
1. Em bé có chơi với
những em khác, những người trong gia đình hay chỉ chơi, thơ thẩn, hoặc quanh
quẩn một mình?
2. Khi chơi với những em
khác, với những người trong gia đình em chơi theo luật lệ, tuân theo đòi hỏi và
sự hướng dẫn hay chỉ ngồi đó, nhìn người khác chơi và chộp giật, tranh giành đồ
chơi của các trẻ em khác, hoặc người khác?
3. Em thường thích chơi
với các đồ vật, con vật hơn chơi với những người chung quanh?
4. Em thường phá phách,
leo trèo, nghịch ngội và không ngồi yên một chỗ?
5. Em hay nhìn lơ láo
trên trần nhà, hoặc nhìn chăm chú vào các phần nhỏ, chi tiết các đồ vật trong
nhà?
6. Em hay bật lên, tắt
xuống luôn những nút điện ở trong nhà?
7. Em hay ngồi say mê xem
đi, xem lại một cuốn phim, hoặc nghe đi, nghe lại một bản nhạc?
8. Em kén ăn và chỉ ăn
một vài món mà em thích?
9. Trước khi ăn em thường
ngửi hoặc nếm đồ ăn?
10. Em rất sợ tiếng động?
11. Em rất ghét và không cho ai động đến đầu tóc
của em. Do đó, việc hớt tóc là một cực hình đối với em và cha mẹ?
12. Em không có ý niệm về sự sợ hãi, nguy hiểm. Thí
dụ, trèo lên cao rồi nhảy xuống, hoặc chạy ào ra đường mặc dù có nhiều xe qua
lại.
13. Em có nhận thức và biết chân, tay, mặt, mũi
bẩn không?
14. Em hay cười nói một mình?
15. Em hay đánh người vô cớ?
16. Em hay cười hoặc vô tình khi cha mẹ hay anh
chị em gặp phải điều gì không lành?
17. Em hay giận hờn vô cớ, làm nũng, và rất dễ ăn
vạ?
18. Mỗi khi giận dỗi, em thường lăn đùng ra
nhà,ném đồ đặc trong nhà, hoặc đánh mình, đánh người khác?
19. Em rất ít khi trả lời khi có ai gọi tên mình?
20. Bình thường khi có chuyện gì xảy ra, thí dụ
chuyện vui em thường phản ảnh sau đó rất lâu và hay thường cười một mình sau
đó?
21. Em không có bạn, và cũng không muốn làm bạn
với bất cứ ai?
22. Em hay ngồi một mình xếp các xe đồi chơi
thành hàng dài rồi tự mình ngắm nghía?
23. Khi có ai đụng chạm đến đồ chơi hay làm sai
lạc các đồ chơi của em, em thường phản ảnh bằng cách giận dữ, quăng ném, và la
hét.
24. Khi có chuyện gì không vừa ý, em thường la
hát, đánh mình, đánh người, nằm lăn ra nhà, ra đất và khóc lóc cho đến khi ý
muốn của em được thỏa mãn?
Cognitive / Learning (Trí tuệ):
Khả năng trí tuệ đối
với một em nhỏ tuổi 18 tháng hoặc 2 tuổi rất khó phân biệt. Trường hợp nghi ngờ
em bị chứng Tự Kỷ, phụ huynh phải để ý đến những triệu chứng sau:
1. Em có biết tên của
mình và có quay lại khi gọi tên em không?
2. Em có biết phân biệt
những màu sắc thông thường, thí dụ, xanh, đỏ, trắng, tím, vàng không?
3. Em có biết phân biệt
những hình dạng, thí dụ, hình vuông, hình tròn không?
4. Em có khả năng nhận
diện được những chữ trong bảng mẫu tự, thí dụ, a, b, c… không?
5. Em có khả năng nhận
diện được mấy con số thông thường, thí dụ, số 1, 2, 3, và 4…không?
6. Em có khả năng nhận ra
các phần trên thân thể mình, thí dụ, mũi, mắt, tai, cằm, miệng, ngón hay bàn
tay không?
Nếu từ 18 tháng tuổi đển 2 tuổi mà em không biết tên của
mình, không nhận được một vài màu sắc thông thường, một vài hình dạng thông
thường là có vấn đề. Và lớn hơn chút nữa khi được tuổi 5 tuổi mà không biết làm
toán cộng, trừ một con số, không biết nhận diện và đọc chữ “ba” hay “má”…
Capacity for Independent Living (Khả năng sống tự lập):
Không
có khả năng tự sinh tồn trong một môi trường thiên nhiên hay trong môi trường
gia đình. Không có khả năng tự lập trong những điều kiện thông thường, đơn giản
và tối thiểu. Không thể tự mình lo lắng sức khoẻ thể lý và tâm lý. Thí dụ, uống
thuốc khi đau ốm. Không có khả năng kiếm sống và sống tự lập một mình nhưng
phải hoàn toàn lệ thuộc vào người khác, vào cha mẹ hay anh chị em.
Ở một đứa trẻ 14 tuổi trở lên, khả năng sống tự lập là một
trong những điều kiện để nhận định tình trạng chậm phát triển.
Economic Self-Sufficiency (Tự lập kinh tế):
Không có
khả năng tự mình kiếm sống. Không có khả năng tự làm một việc gì để mưu sinh. Và
không thể tự mình độc lập được về phương diện tài chánh.
Khả năng tự lập kinh tế, thông thường được áp dụng cho những
bệnh nhân trước 18 tuổi hay sau 18 tuổi gặp phải những tai nạn khiến mất trí
nhớ hoặc không dùng được khả năng trí tuệ để mưu sinh.
Trị liệu:
Cho đến nay chưa có một khảo cứu rõ ràng nào để xác định
nguyên nhân gây ra chứng Tự Kỷ. Một số chủ trương do thực phẩm, và một số chủ
trương do thuốc chủng ngừa. Và cũng theo một khảo cứu mới nhất lại cho rằng
tình trạng tuổi tác của người cha và thể lý của người mẹ. Nhưng đó vẫn chỉ là
những khảo cứu tuy có những chứng cớ, nhưng vẫn không đủ bằng chứng để đi tới
kết luận. Hiện nay, Hiệp Hội Tâm Lý và Tâm Bệnh Học đang cứu xét tái định
nghĩa lại chứng Tự Kỷ, và như vậy những lý do liên quan và tiêu chuẩn sẽ được
phân tích một cách khắt khe hơn.
Những phương pháp trị liệu hiện nay gồm: Tính Tình Trị Liệu
(Behavior Therapy), Chức Năng Trị Liệu (Occupation Therapy), và Ngôn Ngữ Trị
Liệu (Speech Therapy). Trong những trường hợp mà tính năng động vượt quá tầm
kiểm soát, các bác sĩ Tâm Thần (psychiatrist) sẽ dùng Y Dược Trị Liệu (Medical
Therapy) tức là dùng thuốc như đối với các em mang chứng Asperger.
Nhưng dù trị liệu bằng phương pháp nào đi nữa, điều
cần thiết nhất vẫn là sự chú tâm và lo lắng của cha mẹ hay phụ huynh. Kinh
nghiệm cho biết, nhiều phụ huynh đã không chú tâm đến việc lo lắng và hướng dẫn
con mình. Họ hầu như khoán trắng cho những giúp đỡ của các cơ quan chức năng
khác ngoài xã hội. Một số còn coi như may mắn đem “ném” đứa trẻ cho xã hội lo
lắng, và họ coi như phủi tay.
Thực tế là chứng bệnh Tự Kỷ không chỉ làm phiền cho chính
cha mẹ, phụ huynh hay những người chung quanh, nó còn ảnh hưởng cả đến hạnh
phúc gia đình, hạnh phúc hôn nhân của cha mẹ nữa. Vì thế, khi phụ huynh có con
bị chứng Tự Kỷ phải cố gắng thông cảm, hiểu biết nhau và cùng nhau tìm phương
pháp trị liệu. Lo lắng cho một đứa con Tự Kỷ là trách nhiệm và bổn phận của cả
cha lẫn mẹ. Phải học hỏi và cộng tác với các nhà trị liệu, các nhân viên để
ngoài họ ra, chính mình cũng có khả năng giúp cho con mình. Đây mới là phương
pháp trị liệu hữu hiệu nhất.
Giới thiệu cơ quan chức năng:
Tóm lại, khi một em bé bước vào 18 tháng tuổi mà có những
trường hợp như trên thì phụ huynh phải xin với bác sĩ gia đình của em giới
thiệu em đến các cơ quan chức năng để khảo cứu và tìm phương pháp trị liệu. Kinh
nghiệm cho biết, rất nhiều phụ huynh chần chừ, hoặc từ chối chấp nhận sự thật
về con mình, cũng như một số bác sĩ gia đình không sốt sắng giới thiệu đã làm
cho tình trạng của nhiều em nhỏ đâm ra tồi tệ hơn. Đợi khi em 3 tuổi hoặc hơn
nữa mới lo chạy chữa thì đã mất cơ hội tốt cho việc trị liệu của em.
Nếu bác sĩ gia đình không giới thiệu, thì nơi mà phụ huynh
có thể gọi vào để nhờ giúp cho con em mình đó là Regional Center Of Orange
County. Tel. 714-796-5100 hoặc bất cứ một Regional Center nào ở khắp Tiểu
Bang Calfiornia. Hãng Bảo Hiểm Kaiser cũng có thể chẩn đoán chứng Tự Kỷ.
Hoặc phụ huynh cũng có thể liên lạc với trung tâm Y Tế thuộc đại học UCI có tên
gọi là For OC Kids. Tel. 714-939-6118 để xin chẩn đoán cho con em.
Tại mỗi tiểu bang đều có những chương trình tương tự nhưng mang tên khác nhau.
Phụ huynh cần phải tìm hiểu nơi mình đang sinh sống để nhờ giúp đỡ.
Điểm sau cùng nhưng cũng hết sức quan trọng, đó là đối với
những câu hỏi trên, nếu cha mẹ, phụ huynh hay người phụ trách trả lời sai,
không đúng hoặc cố tình trả lời nhẹ đi hoặc hơn với khả năng mà em bé có sẽ ảnh
hưởng rất nhiều đến việc chẩn đoán. Các phụ huynh cần lưu ý, bất cứ câu hỏi nào
về con mình, không được dùng sự suy đoán của mình mà trả lời. Thí dụ, tôi nghĩ
là thế này, tôi nghĩ là thế kia. Hoặc con tôi cái gì nó cũng biết mà chỉ tại vì
nó không muốn nói. Đây là những câu nói hết sức tai hại và là những câu trả lời
mà nhiều phụ huynh Việt Nam đã phải dở khóc, dở cười, và dĩ nhiên hối hận sau
này. Một khi những bản khảo cứu đã được hoàn tất trong đó có ghi là được sự trả
lời và đóng góp của phụ huynh thì việc sửa đổi hay điều chỉnh sau này rất khó
khăn. Và em nhỏ sẽ bị chẩn đoán không đúng với những gì đang xẩy ra trong
tình trạng của em. Có thể em sẽ mất nhiều quyền lợi, nhiều cơ hội chữa trị. Do
đó, chỉ trả lời “có” những gì mình biết, và “không” những gì mình chưa hoặc
không biết.
Trần Mỹ Duyệt
Nguồn: Ủy Ban Mục Vụ Gia Đình