Vào năm 1959, Llhan Durupinar, lúc ấy đang là một viên đại
úy quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, đã khám phá ra một hình thù bất thường trong khi đang
kiểm tra các bức ảnh chụp từ trên không. Vật thể này lớn hơn một sân bóng đá,
nổi bật lên khỏi địa hình đồi núi mấp mô ở độ cao gần 2.000m thuộc dãy núi
Ararat, gần biên giới Iran – Thổ Nhĩ Kỳ.
Tọa độ con tàu: 39 26’ 26.09″ Bắc, 44 14’ 04.29″ Đông
Con tàu nằm giữa một dòng bùn cổ (Ảnh chụp năm 1959)
Đây là một khu vực xa xôi hẻo lánh, chỉ có dân cư của một số
ngôi làng nhỏ sinh sống tại đây. Trước đó chưa hề có báo cáo nào về vật thể kỳ
lạ này. Vì vậy đại úy Llhan Durupinar đã chuyển âm bản của bức hình cho chuyên
gia chụp ảnh trên không là tiến sỹ Brandenburger, thuộc Trường đại học bang
Ohio nước Mỹ. Sau khi nghiên cứu bức ảnh chụp của đại úy Llhan Durupinar,
Brandenburger kết luận: “Tôi chắc chắn, rằng vật thể này là một con tàu.
Trong toàn bộ sự nghiệp của mình, tôi chưa từng trông thấy vật thể nào như cái
này…”.
Vào năm 1960, bức ảnh phía trên đã được xuất bản trong tạp
chí LIFE trong bài viết tựa đề “Có phải tàu Noah?“. Cũng trong năm đó một nhóm
nghiên cứu người Mỹ đã đi theo đại úy Llhan Durupinar đến địa điểm trong tấm
hình. Họ trông đợi sẽ tìm được những cổ vật hay cái gì đó mà có thể chứng minh
vật thể lạ kia đúng thật là một con tàu. Sau hơn 1 ngày đào bới trong khu vực
mà không tìm được, họ tuyên bố rằng vật thể lạ có vẻ chỉ là một kiến tạo tự
nhiên. Câu chuyện nhanh chóng chìm vào quên lãng.
Vào năm 1977, Ron Wyatt tới viếng thăm địa điểm này. Được
chính quyền địa phương cho phép, Ron và những người khác đã nghiên cứu kỹ lưỡng
khu vực này trong nhiều năm. Họ sử dụng máy dò kim loại, máy quét radar ngầm,
tiến hành thăm dò cẩn thận, thực hiện các phân tích hóa học, vv… Những kết quả
thu được hoàn toàn xứng đáng với tâm sức mà họ đã bỏ ra. Những khám phá của họ
đã làm chấn động Thổ Nhĩ Kỳ khi đó. Vật thể lạ quả thực là một con tàu cực kỳ
cổ xưa. Đó là một con tàu rất lớn, thuộc “thời tiền sử”, tại sườn núi ở độ cao
2.000m trên mực nước biển,… và không chỉ có thế.
Bằng chứng trực quan
Phần đầu tiên của cuộc nghiên cứu là kiểm tra vật thể và đo
các kích thước của nó. Vật thể trông giống phần thân của một con tàu lớn. Một
đầu nhọn là mũi tàu, đầu kia bo lại – đuôi tàu. Khoảng cách từ mũi đến đuôi là
gần 160m (chính xác 300 cubit Ai Cập).
Trên mạn phải của con tàu, gần đuôi (điểm B) có 4 thanh
lồi ra khỏi phần đất bùn, cách đều nhau, đã được xác định là các sườn khung của
thân tàu. Đối diện với chúng, ở bên mạn trái, có một thanh sườn cũng lồi ra
khỏi đất bùn (điểm A). Chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy dáng cong của nó.
Xung quanh đó là rất nhiều sườn khác, phần lớn vẫn chôn vùi trong đất, nhưng
kiểm tra kỹ đều có thể thấy được.
Gỗ của con tàu đã bị hóa thạch. Các chất hữu cơ đều đã bị
thay thế bằng khoáng chất, chỉ còn lại hình thù và dấu vết của các thanh sườn
tàu. Có lẽ đó là nguyên nhân tại sao cuộc khảo sát năm 1960 đã không có kết
quả, bởi tại những chỗ mà họ tìm kiếm, gỗ đều đã hóa thạch và xói mòn từ rất
lâu trước đó.
Dấu vết những thanh sườn gỗ hóa thạch bên mạn tàu
Con tàu này nằm giữa một dòng bùn khô. Căn cứ theo vị trí
của con tàu và dòng bùn, có thể thấy rõ vật thể này đã bị cuốn trôi cùng dòng
chảy của bùn, ra cách xa khỏi vị trí ban đầu của nó khoảng 1,6 km. Các nhà địa
chất học tin rằng ban đầu con tàu này nằm ở vị trí cao hơn chỗ hiện tại khoảng
300m, và bị bao bọc trong một lớp bùn cứng hơn. Họ cho rằng một trận động đất hồi năm 1948 đã phá vỡ
lớp vỏ bùn cứng ấy và làm con tàu lộ ra. Điều này cũng được dân làng xung quanh
đó xác nhận.
Phân tích tàn tích của con tàu, sử dụng các phương tiện khác
nhau, người ta xác định con tàu ban đầu có cấu trúc khá phức tạp, với các kích
thước cụ thể ghi trong hình:
Radar xuyên đất
Mắt người chỉ nhìn được vật thể nhờ ánh sáng phản chiếu của
nó. Để nhận ra những vật thể nằm bên dưới mặt đất, các nhà khoa học sử dụng
sóng siêu âm xuyên qua mặt đất. Kỹ thuật này thường được dùng để xác định vị
trí dầu mỏ và các khoáng chất khác. Thiết bị để làm việc này được gọi là Radar
xuyên đất (máy GPR).
Đội các nhà địa chất đánh dấu các dải băng màu vàng dọc theo
vật thể. Sau đó họ rà quét theo các đường này để thu thập dữ liệu và phân tích.
Sau khi phân tích toàn bộ, họ đã lập ra được bản đồ của vật thể cùng với những
gì đang nằm bên dưới mặt đất. Và kết quả là đây:
Radar ngầm đã giúp xác định rõ các cấu trúc bên dưới mặt
đất. Chúng hoàn toàn đối xứng và có bố cục rất hợp lý.
“Dữ liệu này không tương ứng với kiến tạo địa chất tự
nhiên. Chúng là những cấu trúc nhân tạo…”- Ron Wyatt cho biết.
Radar cũng cho thấy nhiều cấu trúc cây gỗ bên trong thân
tàu. Các phân tích đã xác định chúng là những thanh gỗ sống tàu, sống phụ, mép
tàu, các buồng ở, các buồng động vật, hệ thống thang (con tàu có 3 tầng), cánh
cửa phía mũi mạn phải, 2 cái thùng lớn ở gần mũi tàu kích thước 14 x 24 inch,
và một giếng trời nhỏ ở khu vực chính giữa con tàu để thông khí cho toàn bộ 3
tầng của con tàu tiền sử vĩ đại này.
Các hiện vật
Sử dụng máy Radar xuyên đất, Ron Wyatt đã khám phá ra một
khoang trống ở bên mạn phải của con tàu. Ông khoan vào bên trong khoang trống
này để lấy mẫu và đã thu được những thứ rất thú vị.
Trái: lỗ khoan dò. Phải: phân động vật hóa thạch
Trái: gạc hươu hóa thạch. Phải: một chùm lông mèo
Có lẽ khám phá quan trọng và đáng kinh ngạc nhất thu được từ
hiện trường là một miếng gỗ đã hóa thạch. Khi mới được tìm thấy, người ta
tưởng rằng đó là một miếng gỗ đơn thuần của sàn tàu. Nhưng khi kiểm tra kỹ
lưỡng hơn, nó hóa ra gồm 3 tấm ván khác nhau, được cán mỏng sau đó gắn chặt với
nhau bằng một loại keo dán hữu cơ. Nó rất giống với cách chế tạo gỗ dán của
chúng ta ngày nay! Gỗ dán có sức bền lớn hơn nhiều so với gỗ thường. Điều này
chứng tỏ người cổ xưa có trình độ công nghệ rất cao.
Trái: Các kiểm tra do phòng thí nghiệm Galbraith Labs tại Knoxville,
Tennessee, Mỹ thực hiện, cho thấy mẫu gỗ hóa thạch chứa 0,7% carbon hữu cơ.
Phải: Bên trong mẫu gỗ dán cực kỳ cổ xưa đã hóa thạch này, người ta tìm thấy dấu vết của những cây đinh sắt
Phải: Bên trong mẫu gỗ dán cực kỳ cổ xưa đã hóa thạch này, người ta tìm thấy dấu vết của những cây đinh sắt
Kiểm tra cho thấy phần keo dán rỉ ra từ các lớp gỗ. Bề ngoài
của mẫu vật từng được phủ một lớp nhựa đường, cũng đã hóa thạch.
Điều thậm chí còn đáng kinh ngạc hơn nữa, là người ta tìm
thấy dấu vết của những cây đinh sắt bên trong mẫu gỗ dán cực kỳ cổ xưa đã hóa
thạch này.
Trong sách Genesis 6:14, Thần bảo Noah “hãy tự đóng một
con tàu bằng gỗ gopher”. Từ “Gỗ gopher” này thực ra là lỗi dịch sai, đúng ra phải là
“gỗ kopher”. Kopher nghĩa là nhựa đường, “gỗ kopher” nghĩa là gỗ được phủ nhựa
đường.
Ký tự tương đương với “g” và “k” trong tiếng Do Thái cổ
Nguyên nhân là khi người ta dịch Genesis từ văn bản tiếng Do
Thái cổ sang tiếng Anh, thì họ đã bị lẫn lộn giữa ký tự G và ký tự K, vốn có
cách viết rất giống nhau trong tiếng Do Thái. Thực ra bản Bible tiếng Anh,
phiên bản King James, có nhiều lỗi dịch sai tương tự như thế. Ví dụ: Acts 7:45,
Hebrews 4:8,… Đáng chú ý là nhiều phiên bản Bible các thứ tiếng khác lại dịch
từ tiếng Anh ra, cho nên lỗi hiểu sai và dịch sai còn phổ biến hơn nhiều.
Chúng ta thường bị dạy một cách quá bài bản rằng loài người
trải qua “thời kỳ đồ đá”, “thời kỳ đồ sắt”, vv… Người ta xếp “thời kỳ đồ sắt”
vào khoảng hơn 3.000 năm trước đây. Tuy nhiên, ở đây chúng ta có những cây đinh
sắt, cắm bên trong một tấm gỗ dán đã hóa thạch, của một con tàu khổng lồ thời
tiền sử.
Mẫu vật đáng kinh ngạc nhất đã được khám phá nhờ các máy dò
kim loại. Đội nghiên cứu đã xác định được một số vị trí mà ở đó có tín hiệu
mạnh nhất. Sau khi đào lên, họ đã tìm thấy những cái đinh tán lớn có hình đĩa.
Quan sát, chúng ta đều có thể thấy chỗ mà những đinh tán này đã được gõ bẹt đầu
sau khi xỏ xuyên qua lỗ.
Chiếc đinh tán cắm ngập vào phần thân gỗ hóa thạch. Kết
quả phân tích cho thấy nó được làm bằng một loại hợp kim mà thành phần có chứa
cả nhôm
Người ta tiến hành phân tích để tìm hiểu xem kim loại gì đã
được sử dụng để làm ra những cái đinh tán đó. Kết quả là: nó có chứa sắt
(8.38%), nhôm (8.35%) và titan (1.59%). Nhưng đó chỉ là phần kim loại chưa bị
rỉ sét hẳn, cho nên thành phần nguyên thủy ban đầu của thứ hợp kim kỳ lạ này
chính xác gồm những gì vẫn còn là bí ẩn.
Sách giáo khoa nói rằng trong tự nhiên nhôm không tồn tại ở
dạng kim loại, rằng đến cuối thế kỷ 19 người ta mới sản xuất được nhôm vì việc
này đòi hỏi công nghệ luyện kim và kỹ thuật rất cao. Hợp kim Sắt-Nhôm tạo ra
lớp nhôm ôxit mỏng có khả năng chống rỉ và ăn mòn rất tốt. Thành phần titan
giúp hợp kim bền vững hơn. Có lẽ nhờ vậy mà những chiếc đinh tán còn tồn tại
được đến tận ngày nay mà chưa bị rỉ nát.
Tàu Noah bị lãng quên
từ bao giờ?
Cách con tàu vài km, người ta tìm thấy nhiều khối đá rất
lớn, một số dựng đứng trong khi số khác nằm ngã trên mặt đất. Những khối đá này
nặng nhiều tấn, có lỗ xuyên qua. Các nhà nghiên cứu đã xác định rõ rằng chúng
là những cái neo, còn những cái lỗ là để buộc dây thừng.
Những khối đá neo này thường có nhiều dấu khắc chữ thập.
Những dấu khắc hình chữ thập trên những khối đá này là do những người hành
hương từ thời Trung cổ tới đây để được chiêm ngưỡng con tàu huyền thoại. Thực
ra, con tàu này đã nổi tiếng ngay từ thời Trung cổ, thậm chí là từ trước đó
nữa. Địa điểm của con tàu này đã được ghi lại trong nhiều tài liệu lịch sử khác
nhau.
Sử thi Gilgamesh (niên đại ít nhất 2660 năm trước) nói rằng
đỉnh núi Nisir là nơi an nghỉ của con tàu huyền thoại. Địa điểm trong thực tế
tên là Nasar.
Cổ thư Houd Sura 11:44 (thuộc bộ sách Koran) ghi: “Một
giọng nói cất lên: “Đất hãy rút nước của ngươi. Trời hãy ngừng mưa của ngươi”.
Hồng Thủy dịu đi và ý chí của Allah đã được thực hiện. Con tàu đến an nghỉ trên
ngọn Al-Judi, và nghe thấy một giọng nói: “Những kẻ xấu ác đều đã chết“. Chính
xác. Ngọn Al-Judi chính là nơi ban đầu con tàu nằm, trước khi bị dòng bùn cổ
cuốn trôi xuống vị trí hiện nay.
Cổ thư Genesis 8:4-5 (thuộc bộ sách Bible) ghi: “Và con
tàu yên nghỉ vào tháng thứ 7, ngày 17 tháng ấy, trên dãy núi Ararat. Và nước
rút liên tục cho đến tháng thứ 10: vào tháng thứ 10, ngày đầu tiên tháng ấy,
[con tàu] được trông thấy trên đỉnh của các ngọn núi ấy”. (chính xác)
Biên niên sử Ashurnasurpal II của Assyria (833-859 trước
công nguyên) nói con tàu nằm lại ở phía nam của dòng sông Zab. (chính xác)
Cuốn Theophilus của Antioch (115-185) nói rằng vào thời của
ông người ta có thể trông thấy được con tàu trong những ngọn núi của người
Arab. (chính xác)
Vào thế kỷ 13, một du khách tên là Willam đã nói rằng ngọn
núi Masis là vị trí mà con tàu nằm lại. Chính xác, ngày nay ngọn núi này có tên
là Ararat.
Cuốn Geographia của Ptolemy (1548) nói dãy núi Armenia là vị
trí của con tàu. Du khách Nicolas de Nicolay (1558) cũng nói như vậy. (chính
xác)
Không phải ngẫu nhiên mà các nền văn minh cổ đại như Ai Cập,
Babylonia, Lưỡng Hà, Sumeria, Peru, Ấn Độ, Trung Quốc, Nga, châu Mỹ, xứ Wales,
Hawaii, Scandinavia, Sumatra, Polynesia, vv… tất cả đều có các phiên bản riêng
của họ về một trận Đại Hồng Thủy cực lớn toàn cầu. Thống kê cho thấy toàn thế
giới có khoảng 2.000 “truyền thuyết” như vậy. Dưới đây là phân tích sơ bộ một
phần nhỏ trong số này.
Bảng phân tích nội dung các câu chuyện Đại Hồng Thủy khắp toàn cầu (35/~2000).
Phần lớn các câu chuyện đều cho biết đại ý rằng: Đại Hồng Thủy là do Thần tạo
ra để hủy diệt loài người vì nhân loại thời kỳ đó đã không còn lương tâm đạo
đức, không còn xứng làm người. Nhấn vào hình ảnh để phóng lớn.
Báu vật quốc gia Thổ
Nhĩ Kỳ
Ron Wyatt và đằng sau là tàn tích hóa thạch của con tàu Noah
“huyền thoại”. Địa điểm tại độ cao 2.000m trên mực nước biển thuộc dãy núi
Ararat này đã trở thành Công viên Quốc gia Noah’s Ark – Báu vật quốc gia của
Thổ Nhĩ Kỳ
Tờ báo lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ: Chính phủ xác nhận: “Đây là tàu Noah”
Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ
công nhận
Vào ngày 20/6/1987, Thống đốc tỉnh Agri của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên
bố với thế giới rằng: Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, các nhà nghiên cứu thuộc trường
Đại học Ataturk, cơ quan khảo cổ Thổ Nhĩ Kỳ… đã công nhận khám phá của nhóm
thám hiểm Ron Wyatt. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã công nhận vật thể hình chiếc tàu
trên ngọn núi Ararat tại độ cao 2.000m so với mực nước biển ấy là con tàu của
Noah. Khu vực này trở thành công viên quốc gia, báu vật quốc gia của họ.
Đây là một trong những phát hiện lịch sử học và khảo cổ học
vĩ đại nhất, cho thấy Đại Hồng Thủy là sự thật. Nó đã được công nhận từ 24 năm
trước. Nhưng, tại sao sự kiện này bị phớt lờ và hầu như không có phương tiện
truyền thông đại chúng nào của thế giới dám nhắc đến? Ai đã buộc họ phải im
lặng? Câu hỏi này thực ra còn bí ẩn hơn bản thân con tàu “huyền thoại” ấy.