Dẫn nhập
Mỗi năm vào dịp Ngày Quốc Tế Các Bệnh Nhân, đồng thời cũng
là ngày lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, ngày 11.02, tại một số giáo xứ, Bí tích Xức Dầu
Bệnh Nhân thường được cử hành đồng thời cho nhiều anh chị em bệnh nhân. Việc cử
hành cách tập thể như vậy thật có ý nghĩa không chỉ về phương diện tâm lý nhưng
nhất là về phương diện phụng vụ. Về phương diện tâm lý, sự gặp gỡ với những anh
chị em khác trong cùng hoàn cảnh sẽ giúp mỗi bệnh nhân được nâng đỡ rất nhiều
về mặt tinh thần, vì thấy mình không lẻ loi trong cuộc chiến chống lại bệnh
tật. Về mặt phụng vụ, việc cử hành mang tính tập thể diễn tả thật đẹp chiều
kích Hội Thánh, sự hiệp thông, sự liên đới với nhau trong việc kết hợp với cuộc
Vượt Qua của Đức Kitô. Và do đó Hội Thánh khuyến khích cách cử hành này khi có
thể (NT 83) [1].
Đối diện với vấn đề này, chúng ta xin mạn phép góp một vài
suy nghĩ liên quan đến người lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, với ước mong
để việc cử hành và việc sống Bí tích này đạt được nhiều hoa trái thiêng liêng.
Chúng ta sẽ khởi đi từ giáo huấn của Thánh Kinh, đến Thánh Truyền và sẽ dừng
lại với giáo huấn hôm nay của Hội Thánh.
I. Giáo huấn của
Thánh Kinh
Nền tảng đầu tiên của các Bí tích hệ tại nơi mặc khải Thánh
Kinh. Với Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, một trong những mặc khải ấy thể hiện nơi
thư thánh Giacôbê: “Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của
Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa.
Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và
nếu người ấy phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,13c-15).
Chúng ta chỉ đề cập đến câu đầu tiên của bức thư này. Theo
văn mạch, thánh Giacôbê đang viết đoạn thư này cho cộng đoàn Kitô giáo. Do vậy
cụm từ ai trong anh em muốn nói đến một người Kitô hữu. Từ ngữ đau yếu được
hiểu thế nào? Theo đa số các nhà chú giải, từ đau yếu được dùng ở đây để chỉ sự
đau yếu về mặt thể lý; từ ngữ ấy được dùng để chỉ những người bệnh nặng, bệnh
liệt giường. Thánh Kinh Tân Ước cũng đã sử dụng từ đau yếu này tổng cộng 35 lần
để chỉ những trường hợp bệnh nhân được khiêng đến với Đức Giêsu [3].
Như vậy, theo mặc khải của Thánh Kinh, người lãnh nhận Bí
tích này cần có hai điều kiện:
1. là người Kitô hữu;
2. vì hiệu quả của Bí tích này là để bệnh nhân được Chúa
nâng dậy, nên người lãnh nhận phải là người bệnh nặng về mặt thể lý.
II. Giáo huấn của
Thánh Truyền
Nếu các Bí tích có nền tảng đầu tiên là mặc khải của Thánh
Kinh; thì nền tảng thứ hai không thể thiếu của các Bí tích là mặc khải của
Thiên Chúa được thể hiện qua Thánh Truyền. Với Thánh Truyền của Bí tích Xức Dầu
Bệnh Nhân, chúng ta tạm chia ba giai đoạn sau:
Giai đoạn I: từ thế
kỷ II đến thế kỷ VII
Vào thế kỷ III (khoảng năm 215), tác phẩm Truyền Thống Tông
Đồ được coi là của thánh Hyppôlytô vẫn xác định người lãnh nhận Bí tích này
phải là người đau yếu về mặt thể lý, vì hiệu quả chính yếu của Bí tích này là
để “mang đến sức mạnh cho những ai lãnh nhận và mang đến sức khỏe cho những ai
sử dụng” [4]. Hai trăm năm sau, tư tưởng ấy được lập lại bởi Đức Giáo Hoàng
Innocent I trong thư gởi cho Decentius de Gubbio vào ngày 19.03.416. Trong bức
thư này, Đức Giáo Hoàng vẫn xác định Bí tích này chỉ được ban cho những ai đau
yếu về mặt thể lý, nhưng Ngài thêm vào một qui định mới: những người đang trong
thời kỳ thống hối thì không thể lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (DS 216)
[5]. Trong giai đoạn này còn có tác phẩm Những Bài Giảng Của Giám Mục Césaire
d’Arles (năm 470-543). Tác giả vẫn xác định người lãnh nhận Bí tích này là
người đau yếu về thể lý, nhưng cũng xuất hiện ý tưởng mới: “các bạn thấy rằng
ai trong cơn đau bệnh đến nhà thờ sẽ xứng đáng lãnh nhận sức khỏe thân xác và
ơn tha thứ tội lỗi” [6]. Nói cách khác, đối với tác giả, Bí tích Xức Dầu Bệnh
Nhân vừa có hiệu quả về mặt thể lý, vừa có hiệu quả thiêng liêng là tha thứ tội
lỗi.
Như vậy, đến thế kỷ VII, giáo huấn của thánh Giacôbê vẫn
được Hội Thánh duy trì: Bí tích Xức Dầu chỉ được ban cho các bệnh nhân Kitô
hữu, vì hiệu quả chính yếu của Bí tích này là ban sức mạnh cho những ai lãnh
nhận. Tuy nhiên, ở giai đoạn này cũng bắt đầu xuất hiện khó khăn: làm sao dung
hòa quan điểm của Đức Giáo Hoàng Innocent I (không thể ban Bí tích Xức Dầu cho
các tội nhân) và quan điểm của Đức Giám Mục Césaire d’Arles (Bí tích này cũng
ban ơn tha tội). Cần một giai đoạn mới ra đời để giải quyết vấn đề này.
Giai đoạn II: từ thế
kỷ VIII đến thế kỷ XII
Bước sang thế kỷ VIII, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân được Hội
Thánh qui định: chỉ được cử hành bởi Linh Mục (và Giám Mục) [7]. Do đó, các
sách Phụng Vụ bắt đầu ghép nghi thức Bí tích Xức Dầu với nghi thức trao Của Ăn
Đàng và với nghi thức Bí tích Thống Hối, vì cả ba nghi thức đều do Linh Mục cử
hành cho cùng bệnh nhân. Thứ tự cử hành gồm bốn bước: 1/ Linh mục nghe hối nhân
xưng tội; 2/ ban Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân; 3/ ban ơn giao hòa của Bí tích Thống
Hối; 4/ trao Của Ăn Đàng. Sở dĩ phải theo thứ tự này vì phải đảm bảo ý nghĩa
của việc sám hối vào thời ấy: hối nhân sau khi xưng tội phải trải qua thời gian
thống hối, trước khi lãnh ơn giao hòa, quãng thời gian biểu trưng ấy được tận
dụng để ban Bí tích Xức Dầu [8].
Việc thực hành với thứ tự như vậy bắt đầu gặp khó khăn với
Công Đồng Pavie năm 850. Dựa vào bức thư của Đức Giáo Hoàng Innocent I ngày
19.03.416 (DS 216), Công Đồng Pavie quyết định không ban Bí tích Xức Dầu cho
những ai chưa lãnh nhận ơn giao hòa (DS 620). Do đó, người ta đã phải thay đổi
thứ tự cử hành hiện thời. Từ nay, bốn bước cử hành sẽ theo thứ tự mới: 1/ Linh
mục nghe hối nhân xưng tội; 2/ ban ơn giao hòa; 3/ trao Của Ăn Đàng; 4/ ban Bí
tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Vì được cử hành sau cùng, trước khi Bệnh nhân qua đời,
nên Bí tích Xức Dầu dần dần bị coi như Bí tích chuẩn bị cho sự chết. Do đó,
người lãnh nhận Bí tích này cũng dần dần được hiểu là người hấp hối chứ không
chỉ bệnh nặng.
Như vậy, cho đến thế kỷ XII, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân vẫn
chỉ được dành cho người bệnh về mặt thể lý vì hiệu quả của Bí tích này vẫn là
ban sức mạnh phần xác. Tuy nhiên, bắt đầu có sự thay đổi: người lãnh nhận Bí
tích Xức Dầu không còn thuần túy là người bệnh nặng về thể lý, nhưng phải là
người đang hấp hối. Các Công Đồng chung có chuẩn nhận không?
Giai đoạn III: từ thế
kỷ XIII đến thế kỷ XX
Trong giai đoạn này, có hai Công Đồng chung đề cập đến người
lãnh nhận Bí tích:
1/ Công Đồng Florence (năm 1439) trong Décret pour les
Arméniens đã định tín: “Bí tích thứ năm là Bí tích Xức Dầu Cuối Cùng (l’extrême
– onction) với chất thể là dầu Oliu được Đức Giám Mục làm phép. Bí tích này chỉ
được ban cho những bệnh nhân sắp lìa cõi thế. […] Về hiệu quả, Bí tích này là
sự chữa trị cho tâm hồn. Tuy nhiên, nếu hữu ích cho linh hồn, Bí tích này cũng
chữa trị phần xác” (DS 1324-1325). Như vậy, Công Đồng Florence đã chuẩn nhận tư
tưởng đương thời: Bí tích này chỉ được ban cho những ai sắp lìa cõi thế. Hiệu
quả chính của Bí tích là chữa trị tâm hồn, còn việc chữa lành phần xác chỉ tùy
thuộc.
2/ Công Đồng Tridentinô (năm 1545-1563) định tín: “Bí tích
này được trao ban cho những bệnh nhân, nhất là những ai lâm vào tình trạng nguy
tử; vì thế Bí tích này cũng được gọi tên là Bí tích của những người sắp ra đi”
(DS 1698). Như vậy, có một khác biệt nhỏ với Công Đồng Florence, Công Đồng
Tridentinô phân biệt giữa người bệnh và người nguy tử, cả hai đều có thể lãnh
nhận Bí tích này.
Nhận định: dù có thay đổi về cách gọi tên Bí tích, hai Công
Đồng chung trong giai đoạn này vẫn luôn trung thành với truyền thống và đã định
tín: vì hiệu quả của Bí tích là sự chữa lành phần hồn và phần xác, nên người
lãnh nhận Bí tích này phải là người bệnh nhân Kitô hữu và thậm chí phải là
người hấp hối. Giáo Huấn hôm nay có theo sát giáo huấn này không?
III. Giáo huấn hôm
nay của Hội Thánh
Từ Công Đồng Vatican II, có hai mảng giáo huấn quan trọng
sau đây:
A/ Hiến Chế Phụng Vụ của Công Đồng Vatican II dạy: “Bí tích
Xức Dầu Cuối Cùng hay đúng hơn còn có thể gọi là Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
không phải chỉ là Bí tích dành riêng cho những người hấp hối. Do đó, thời gian
thuận tiện để nhận Bí tích này chắc chắn là lúc tín hữu bắt đầu nguy tử vì bệnh
tật hay già yếu” (PV 73) [9]. Như vậy, Công Đồng Vatican II đang canh tân điều
Công Đồng Florence đã nói trước đó: từ nay sẽ là Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, vì
người lãnh nhận là người bệnh (hoặc già yếu) chứ không hẳn là người hấp hối.
B/ Theo định hướng của Công Đồng Vatican II, Bộ Phụng Tự khi
ban hành Nghi Thức Xức Dầu Bệnh Nhân và việc săn sóc họ theo mục vụ, vào ngày
07.12.1972, và đã qui định 6 trường hợp như sau về người lãnh nhận Bí tích này
(NT 8-15):
1/ Bí tích này có thể ban lại nếu sau khi lãnh nhận Bí tích,
bệnh nhân bình phục và sau đó lại bệnh trở lại; hay nếu trong cùng một căn bệnh
kéo dài lâu, tình trạng nguy cập trở nên trầm trọng hơn.
2/ Bí tích này có thể ban cho bệnh nhân trước khi giải phẫu
vì căn bệnh nguy hiểm.
3/ Bí tích này có thể ban cho người già cả khi sức lực đã
yếu nhiều, dù không có bệnh nguy ngập.
4/ Bí tích này có thể ban cho trẻ em đến thời kỳ biết sử
dụng trí khôn.
5/ Bí tích này có thể ban cho những bệnh nhân tuy dù đã bất
tỉnh hoặc mất trí, miễn là khi họ còn tỉnh táo, với tư cách là những người có
đức tin, có thể họ xin chịu Bí tích này.
6/ Đối với bệnh nhân đã chết, Linh Mục chỉ cầu xin Thiên
Chúa tha thứ tội lỗi cho họ; và Linh Mục không ban Bí tích Xức Dầu cho họ. Còn
nếu hồ nghi không biết bệnh nhân chết thật chưa, thì có thể ban Bí tích này với
điều kiện.
Nhận định: giáo huấn ngày hôm nay của Hội Thánh về Bí tích
Xức Dầu Bệnh Nhân không phải tự nhiên mà có. Giáo Huấn ấy được dệt nên từ nền
tảng Thánh Kinh, Thánh Truyền. Đó là điều Hội Thánh đã sống và đã cử hành dưới
tác động của Chúa Thánh Thần trong suốt hai ngàn năm qua.
Kết luận
Suốt hai ngàn năm qua điều kiện của người lãnh nhận Bí tích
Xức Dầu Bệnh Nhân vẫn luôn thể hiện tính Duy Nhất trong giáo huấn của Hội
Thánh. Điều kiện để Bí tích thành sự : 1/người lãnh nhận phải là người Kitô hữu
(nghĩa là đã được Rửa Tội, vì Bí tích Rửa Tội là cửa ngõ của tất cả các Bí tích
khác); 2/phải là người bệnh nặng về mặt thể lý (hoặc là người già yếu). Và để
việc lãnh nhận được hợp pháp, người lãnh nhận cần: 1/ đến tuổi khôn; 2/ ở trong
tình trạng ân sủng (xưng tội trước khi lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân).
Như thế, vì mục đích và ý nghĩa riêng của mình, Bí tích Xức
Dầu Bệnh Nhân không thể ban cho những bệnh nhân ngoài Kitô giáo, không thể ban
cho những ai còn khoẻ mạnh. Thậm chí Bí tích này cũng không thể ban cho những
ai sắp lâm vào cơn nguy tử nhưng không phải vì bệnh tật, ví dụ các người lính
sắp ra trận hoặc những người sắp phải ra pháp trường… (trong những trường hợp
này chỉ cần giải tội và ban Mình Thánh Chúa).
Để kết thúc, chúng ta mượn lời giáo huấn của Hội Thánh để
tóm kết ý nghĩa của Bí tích này: “Qua việc xức dầu bệnh nhân và lời cầu nguyện
của các Linh Mục, toàn thể Hội Thánh phó thác các bệnh nhân cho Chúa chịu nạn
và vinh hiển để Người nâng đỡ và cứu chữa họ; hơn nữa, Hội Thánh còn khuyên bảo
họ tự nguyện kết hợp với cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Kitô, để mưu ích cho
dân Thiên Chúa” (GLTC 1499).
Linh Mục Giuse Đỗ Xuân Vinh
Đại Chủng Viện Thánh Giuse – Saigon
Đại Chủng Viện Thánh Giuse – Saigon
------------------------------------------
[1] Bộ Phụng Tự, Nghi thức xức dầu Bệnh nhân và việc
săn sóc họ theo mục vụ, 07.12.1972. Bản dịch của Ủy Ban Giám Mục về Phụng Vụ,
Saigon, 1974, chúng ta viết tắt NT.
[2] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, ban hành ngày
11.10.1992, do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Bản dịch của Hội Đồng giám mục
Việt Nam, Ủy ban giáo lý đức tin, nxb Tôn Giáo, 2010, viết tắt GLTC.
[3] Hai trong số các tác giả mà chúng ta dựa vào: 1/B.
Sesboüé, “L’onction des malades, tendresse de Dieu envers l’humanité
souffrante”, in Invitation à croire. Des sacrements crédibles et
désirables, Paris, Cerf, 2009, tr. 231-232 ; 2/ C. Ortemann,Le sacrement des
malades. Histoire et signification, Paris, Ed. du Chalet, 1971, tr. 14-19.
[4] Hippolyte de Rome, La Tradition Apostolique, Paris,
Cerf, 1946, coll. “Source Chrétienne”, n°11bis, Introduction, traduction et
notes par B. Botte, tr. 34.
[5] Denzinger, Symboles et définitions de la foi
catholique, Paris, Cerf, 1996, viết tắt DS.
[6] Césaire d’Arles, Sermons au peuple, Paris, Cerf, 1971,
coll. “Source Chrétienne”, n° 175, Introduction, traduction par M-J. Delage,
tr. 423.
[7] Cho đến thế kỷ VII, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân có thể
được cử hành bởi Giám Mục, bởi Linh Mục, bởi Phó Tế và thậm chí có thể bởi giáo
dân. Nhưng từ thế kỷ VIII, nhất là do ảnh hưởng bởi cuộc canh tân của Hoàng Đế
Charlemagne (768-814), hàng loạt Công Đồng qui định chỉ có Linh Mục (lẽ tất
nhiên bao hàm Giám Mục) mới được cử hành Bí tích này: Capitulaire de
Charlemagne (năm 769, canon 10); Concile de Chalon-sur-Saône (năm 813, canon
48); Concile d’Aix-la-Chapelle (năm 836, canon 5); Concile de Mayence (năm 847,
canon 26).
[8] Chúng ta tham khảo J-P. Revel, Traité des
sacrements. VI. L’onction des malades. Rédemption de la chair et par la chair.
Paris, Cerf, 2009, tr. 77-88.
[9] Hiến Chế Phụng Vụ của Công Đồng Vatican II: Sacrosanctum
Concilium, chúng ta viết tắt PV.