2. Khi bắt đầu đảm nhận sứ vụ Kế vị Thánh Phêrô, tôi đã
nhắc đến việc cần phải tái khám phá hành trình đức Tin để luôn làm nổi bật niềm
vui và niềm hưng phấn mới của việc gặp gỡ Đức Kitô. Trong Bài giảng Thánh
lễ khai mạc sứ vụ Giáo hoàng, tôi đã nói: “Toàn thể Giáo hội và các Mục tử
trong Giáo hội, cũng như Đức Kitô, phải lên đường để đưa con người ra khỏi sa
mạc, đến nơi có sự sống, đến việc làm bạn với Con Thiên Chúa, đến với Đấng ban
cho chúng ta sự sống, sự sống dồi dào” [1]. Tuy nhiên, các Kitô
hữu lại thường quan tâm nhiều hơn tới những kết quả của sự dấn thân về phương
diện xã hội, văn hóa và chính trị, cứ tưởng rằng đức Tin là tiền đề hiển nhiên
của đời sống xã hội. Nhưng thực tế cho thấy tiền đề ấy không chỉ không còn được
coi là hiển nhiên nữa mà thậm chí còn thường bị phủ nhận. [2]. Trong khi ngày
xưa, có thể nhận ra một hệ thống văn hóa thống nhất, được nhiều người chấp
nhận, có tham chiếu nội dung đức Tin và những giá trị chịu ảnh hưởng của đức
Tin, thì ngày nay, trong các lãnh vực lớn của xã hội có lẽ không còn như vậy
nữa, do cuộc khủng hoảng sâu sắc về đức Tin đã ảnh hưởng
tới nhiều người.
3. Chúng ta không thể chấp nhận để muối nhạt đi và ánh
sáng bị che khuất (x. Mt 5, 13-16). Con người ngày nay, cũng giống như người
phụ nữ Samaria, có thể cũng lại cảm thấy cần phải đến bên giếng nước để lắng
nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi hãy tin vào Người và múc lấy nước hằng sống từ
Người trào ra (x. Ga 4, 14). Chúng ta phải tìm lại niềm vui thích nuôi dưỡng
mình bằng Lời Chúa được Giáo hội trung thành truyền lại, và bằng Bánh Hằng
Sống, được ban cho để nâng đỡ tất cả những ai làm môn đệ Chúa (x. Ga 6, 51). Quả
thật, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ trong thời đại chúng
ta: “Các con hãy làm việc không phải để được của ăn hay hư nát, nhưng để được
lương thực thường tồn” (Ga 6, 27). Câu hỏi đã được mọi người nghe Chúa nói đặt
ra,cũng là câu hỏi của chúng ta ngày nay: “Chúng tôi phải làm gì
để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6, 28). Chúng ta biết Chúa Giêsu
trả lời ra sao: “Việc Thiên Chúa muốn là: Anh em hãy tin vào Đấng mà Người đã
sai đến” (Ga 6, 29). Vậy, tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc chắn
đạt tới ơn cứu độ.
4. Từ những điều nói trên, tôi quyết định mở một Năm
Đức Tin. Năm Đức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng Mười 2012, nhân kỷ
niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II, và sẽ kết thúc vào ngày đại lễ Chúa
Kitô Vua Vũ Trụ, 24 tháng Mười Một 2013. Ngày 11 tháng Mười 2012, cũng sẽ diễn
ra lễ kỷ niệm 20 năm xuất bản Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, được vị
Tiền nhiệm của tôi, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II [3] ban hành, với
mục đích trình bày cho mọi tín hữu sức mạnh và vẻ đẹp của đức Tin. Văn kiện này
là thành quả đích thực của Công đồng Vatican II. Thượng Hội đồng Giám mục khóa
họp ngoại thường năm 1985 đã mong ước văn kiện này được sử dụng trong việc dạy
giáo lý [4]; và toàn thể hàng Giám mục của Giáo hội Công giáo đã cộng tác thực
hiện văn kiện này. Chính tôi cũng đã triệu tập Đại hội toàn thể Thượng Hội đồng
Giám mục vào tháng Mười năm 2012 về đề tài Tân Phúc âm hóa để thông truyền
đức Tin Kitô giáo. Đây sẽ là một cơ hội thuận lợi để đưa toàn Giáo hội bước vào
một giai đoạn suy tư đặc biệt và tái khám phá đức Tin. Đây không phải lần đầu
tiên Giáo hội được kêu gọi cử hành Năm Đức Tin. Vị Tiền nhiệm đáng kính
của tôi, Tôi tớ Chúa Phaolô VI cũng đã ấn định Năm Đức Tin tương tự
vào năm 1967, để kỷ niệm cuộc tử đạo của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô,
nhân 1900 năm cuộc làm chứng cao cả của các ngài. Đức cố giáo hoàng đã nghĩ đến
việc kỷ niệm này là một thời điểm long trọng để toàn thể Giáo hội chính thức và
chân thành “tuyên xưng cùng một đức Tin”; ngoài ra, ngài mong muốn đức Tin được
củng cố “về phương diện cá nhân cũng như tập thể, có tự do và ý thức, nơi nội
tâm cũng như bên ngoài, khiêm tốn và chân thành” [5]. Ngài tin rằng bằng cách
này toàn thể Giáo hội sẽ “ý thức rõ rệt hơn về đức Tin của mình, để làm tươi
mới đức Tin, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức Tin” [6]. Những xáo trộn
lớn diễn ra trong Năm Đức Tin ấy càng cho thấy rõ cần phải có một
cuộc cử hành như thế. Năm Đức Tin ấy đã kết thúc với Bản Tuyên
xưng Đức Tin của Dân Chúa [7], cho thấy có biết bao nội dung cốt yếu từ
các thế kỷ qua, vốn là gia sản của mọi tín hữu, cần phải được củng cố, hiểu
biết và ngày càng đào sâu hơn, để đưa ra chứng từ phù hợp với hoàn cảnh lịch sử
đã khác xưa.
5. Trong một số khía cạnh, vị Tiền nhiệm đáng kính của
tôi đã coi Năm Đức Tin ấy như “một hệ quả và là một yêu cầu của thời
hậu Công đồng” [8], ngài ý thức rõ về những khó khăn nghiêm trọng của thời đại,
nhất là về việc tuyên xưng đức Tin chân thật và sự giải thích đức Tin đúng đắn.
Tôi cho rằng việc khởi sự Năm Đức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm
khai mạc Công đồng Vatican II có thể là một cơ hội thuận lợi để hiểu rằng các
văn kiện Công đồng, được các Nghị phụ để lại như di sản, - theo như lời Chân
phước Gioan Phaolô II - “không hề mất giá trị và vẻ ngời sáng”. Các
văn kiện ấy cần phải được đọc một cách đúng đắn, được phổ biến rộng rãi và tiếp
nhận thấu đáo như những văn kiện quan trọng và mang tính quy phạm thuộc Huấn
quyền, trong Truyền thống của Giáo hội… Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy nghĩa vụ
phải nói rõ Công đồng chính là hồng ân Giáo hội được hưởng trong thế kỷ XX:
Công đồng mang lại cho chúng ta một chiếc la bàn đáng tin cậy để định
hướng trong cuộc hành trình thế kỷ đang mở ra” [9]. Tôi cũng muốn mạnh mẽ nhắc
lại những gì tôi đã nói về Công đồng sau vài tháng được bầu lên kế vị Thánh
Phêrô: “Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì
Công đồng ngày càng sẽ và luôn trở thành một nguồn lực lớn lao cho việc thực
hiện cuộc canh tân vốn luôn cần thiết đối với Giáo hội” [10].
6. Cuộc canh tân Giáo hội cũng còn được thực hiện qua
chứng từ cuộc sống của các tín hữu: quả vậy, bằng chính sự hiện diện của mình
trong thế giới, các tín hữu được mời gọi làm ngời lên Lời Chân lý Chúa Giêsu để
lại cho chúng ta. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lý Lumen Gentium, đã
khẳng định: “Trong khi Chúa Kitô, ‘thánh thiện, vô tội, không tì vết’ (Dt 7,
26) không hề biết đến tội lỗi (x. 2 Cr 5, 21), chỉ đến mà chuộc tội cho dân (Dt
2, 17), thì Giáo hội, mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vì thế, Giáo hội
là thánh thiện đồng thời cũng được kêu gọi thanh luyện chính mình, không ngừng
phải nỗ lực thống hối và canh tân. Giáo hội “tiến bước trong cuộc lữ hành qua
những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa”, loan báo cuộc
khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Chúa đến (x. 1 Cr 11,26). Quyền năng
của Chúa Phục sinh giúp cho Giáo hội thắng vượt –với lòng nhẫn nại và yêu thương– những
buồn sầu và khó khăn xảy đến cho Giáo hội từ bên ngoài và cả từ bên trong, và
trung thành bày tỏ mầu nhiệm của Chúa giữa lòng thế giới, mầu nhiệm ấy dù còn
bị bóng tối che khuất nhưng cuối cùng sẽ đến ngày hiển lộ trong ánh quang rạng
ngời” [11]’.
Trong viễn cảnh này, Năm Đức Tin là lời mời gọi
hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng duy
nhất cứu độ thế giới. Trong mầu nhiệm cái chết và phục sinh của Người,
Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn Tình yêu cứu độ và kêu gọi con người hoán cải
cuộc sống nhờ được tha thứ tội lỗi (x. Cv 5, 31). Đối với Thánh Phaolô Tông đồ,
Tình yêu ấy dẫn con người đến cuộc sống mới: “Qua phép Rửa, chúng ta đã được
mai táng với Người trong sự chết, để như Chúa Kitô sống lại từ cõi chết nhờ
vinh quang của Chúa Cha, chúng ta cũng sẽ được sống trong sự sống mới” (Rm 6,
4). Nhờ đức Tin, sự sống mới này làm khuôn mẫu cho toàn thể cuộc sống con người
theo sự mới mẻ tuyệt đối của sự sống lại. Tùy theo mức độ sẵn sàng vâng theo ý
Chúa, mọi tư tưởng và tình cảm, tâm trí và hành vi của con người dần dần được
thanh luyện và biến đổi, trong một cuộc hành trình chẳng bao giờ được hoàn tất
ở đời này. Đức Tin “hành động qua đức ái” (Gl 5, 6) trở thành một chuẩn mực mới
giúp thông hiểu và hành động, làm thay đổi toàn thể cuộc sống con người (x. Rm
12, 2; Cl 3, 9-10; Ep 4, 20-29; 2 Cr 5, 17).
7. “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,
14): chính tình yêu Chúa Kitô đổ đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan
báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như xưa kia, Chúa sai chúng ta ra đi trên khắp nẻo
đường thế giới để công bố Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên trái đất (x.
Mt 28, 19). Chúa Giêsu Kitô dùng tình yêu thu hút con người thuộc mọi thế hệ đến
với Người: trong mọi thời đại, Người gọi Giáo hội đến và trao nhiệm vụ loan báo
Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày nay Giáo hội phải
dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa qua công cuộc Tân Phúc âm hóa, để tái
khám phá niềm vui đức Tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức Tin. Việc
dấn thân truyền giáo của các tín hữu, vốn không bao giờ được thiếu, sẽ nhận
được sức mạnh và tinh thần hăng hái qua việc hằng ngày nhận ra tình yêu của
Thiên Chúa. Thực vậy, đức Tin sẽ tăng trưởng khi biết sống đức Tin với cảm
nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh, và biết thông truyền đức Tin với cảm nghiệm về
ân sủng và niềm vui. Đức Tin làm cho chúng ta trở nên phong phú, bởi đức Tin
giúp tâm hồn mở rộng trong hy vọng và đem lại một chứng từ giàu sức sống: đức
Tin mở cánh cửa tâm trí của tất cả những ai lắng nghe và đón nhận Lời Chúa mời
gọi hãy gắn bó với Lời Chúa để trở thành môn đệ của Người. Thánh Augustinô cho
biết, các tín hữu “nhờ tin tưởng mà được củng cố” [12]. Thánh Giám mục thành
Hippo đã có lý khi nói như vậy. Như chúng ta biết, cuộc đời của thánh nhân là
một cuộc tìm kiếm không ngừng vẻ đẹp của đức Tin cho đến khi tâm hồn ngài tìm
được sự an nghỉ trong Thiên Chúa [13]. Trong nhiều tác phẩm của mình, thánh
nhân đã giải thích tầm quan trọng của việc tin và chân lý đức Tin. Những tác
phẩm ấy đến nay vẫn còn là một di sản phong phú vô song, giúp biết bao người
tìm kiếm Thiên Chúa gặp được con đường đúng đắn để đến được “cánh cửa đức Tin”.
Vì vậy, sở dĩ đức Tin được tăng trưởng và vững mạnh là nhờ biết
tin tưởng; để đời mình được vững chắc, không có cách nào khác hơn là không
ngừng buông mình vào vòng tay của một tình yêu dường như lớn lao thêm mãi, bởi
tình yêu ấy phát xuất từ Thiên Chúa.
8. Nhân dịp vui mừng này, tôi muốn mời gọi anh em Giám
mục trên toàn thế giới hãy hiệp nhất với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời
điểm ân phúc thiêng liêng Chúa dành cho chúng ta, để nhớ lại hồng ân đức Tin
quý giá. Chúng ta mong được cử hành Năm Đức Tin này một cách xứng
đáng và sinh ơn ích. Cần tăng cường suy tư về đức Tin để giúp tất cả những ai
tin vào Chúa Kitô được ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất là
vào lúc nhân loại đang sống giữa những đổi thay sâu sắc như hiện nay. Chúng ta
sẽ có cơ hội tuyên xưng đức Tin nơi Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chính tòa
và các nhà thờ trên khắp thế giới; trong các gia đình, để mỗi người cảm thấy sự
đòi hỏi cấp thiết phải hiểu biết hơn nữa về đức Tin và truyền lại đức Tin ấy
cho các thế hệ mai sau. Các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể
những tổ chức trong Giáo hội, dù lâu đời hay mới lập, hãy tìm ra cách thức công
bố Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin này.
9. Chúng ta mong ước Năm Đức Tin sẽ khơi dậy
nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức Tin trong sự toàn vẹn và với
một niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là
một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc cử hành đức Tin trong phụng
vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là “chóp đỉnh mà hoạt động của Giáo hội
hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào sức mạnh của Giáo hội” [14]. Đồng
thời, chúng ta ước mong việc làm chứng bằng đời sống của các tín hữu
sẽ tăng tiến trong sự khả tín. Tái khám phá nội dung đức Tin được tuyên xưng,
được cử hành, được thể hiện qua đời sống và cầu nguyện [15], và suy tư về chính
việc làm của lòng tin, đó là nhiệm vụ mỗi tín hữu phải thực hiện, nhất là trong Năm
Đức Tin này.
Không phải là không có lý do mà trong những thế kỷ đầu tiên,
các Kitô hữu phải học thuộc lòng kinh Tin kính. Các tín hữu dùng kinh này cầu
nguyện hằng ngày, để không quên lời cam kết khi chịu phép Rửa tội. Với những
lời mang ý nghĩa súc tích, thánh Augustinô nhắc nhở điều đó trong Bài
giảng về redditio symboli, trao Tín biểu (Kinh Tin kính): “Tín
biểu về mầu nhiệm thánh (Kinh Tin kính) mà tất cả anh chị em cùng nhau lãnh
nhận và từng người trong anh chị em hôm nay đọc lên, là những lời diễn tả đức
Tin của Mẹ Giáo hội, được xây dựng vững chắc trên nền tảng vững bền là Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta... Anh chị em đã lãnh nhận và tuyên đọc Tín biểu này, vậy,
phải lưu giữ Tín biểu nơi lòng trí anh chị em, phải lặp lại Tín biểu khi lên
giường ngủ, phải suy ngẫm Tín biểu khi ra nơi công cộng, không được quên Tín
biểu khi ăn uống, ngay cả khi thân xác đã ngủ yên, thì trái tim vẫn tỉnh thức
với Tín biểu này” [16].
10. Đến đây, tôi muốn phác một lộ trình giúp hiểu sâu
thêm những nội dung đức Tin, không những vậy mà với những nội dung đó, còn là
việc làm, qua đó, chúng ta quyết định hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa với tất
cả tự do. Thực vậy, có sự thống nhất sâu xa giữa hành vi thể hiện đức Tin và
những nội dung chúng ta tán đồng. Thánh Phaolô Tông đồ giúp đi vào bên trong
thực tại này khi ngài viết: “Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính;
có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Con tim mách bảo chúng
ta rằng chúng ta có được đức Tin vì trước hết đó là quà tặng của Thiên Chúa, và
ân sủng Chúa tác động và biến đổi tận nơi sâu thẳm trong con người.
Câu chuyện bà Lidia là một dẫn chứng đầy sức thuyết phục về
vấn đề này. Thánh Luca thuật lại, khi Thánh Phaolô đến thành Philipphê, ngày
thứ Bảy ngài đi rao giảng Tin Mừng cho vài phụ nữ; trong số họ có bà Lidia và
“Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý những lời Phaolô nói” (Cv 16, 14). Một diễn
đạt mang ý nghĩa quan trọng. Thánh Luca dạy, việc hiểu biết những nội dung để
tin thì không đủ, nếu cõi lòng, cung thánh đích thực của con người, không được
ơn Chúa mở cho, nhờ đó mới có được đôi mắt để nhìn sâu xa và hiểu ra điều được
loan báo chính là Lời Chúa.
Tiếp đến, việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức Tin gồm
cả việc làm chứng và dấn thân công khai. Người Kitô hữu không bao giờ được nghĩ
rằng tin là chuyện riêng tư. Tin, là quyết định ở lại với Chúa để sống với
Người. Một khi “ở lại với Chúa”, ta sẽ hiểu được tại sao ta tin. Chính vì đức
Tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi phải có trách nhiệm xã hội về những điều
đã tin. Giáo hội, trong ngày lễ Hiện xuống, rõ ràng đã cho thấy chiều kích công
khai ấy của việc tin tưởng và loan báo không chút sợ hãi về niềm tin của mình
cho mọi người. Chính ơn Chúa Thánh Thần giúp chúng ta đảm đương sứ mạng, thêm
sức để chúng ta làm chứng một cách trung thực và can đảm.
Tự bản thân việc tuyên xưng đức Tin là một hành vi cá nhân,
đồng thời cũng mang tính cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo hội là chủ thể đầu
tiên của đức Tin. Trong đức Tin của cộng đoàn Kitô hữu, mỗi người lãnh nhận bí
tích Rửa tội, là dấu chỉ có hiệu lực về sự gia nhập đoàn dân tín hữu để được ơn
cứu độ. Như Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáominh chứng: Nói “Tôi tin” là
nói lên đức Tin của Giáo hội được cá nhân mỗi tín hữu tuyên xưng, cụ thể là khi
chịu phép Rửa tội. Còn nói “Chúng tôi tin” là nói lên đức Tin của Giáo hội được
các Giám mục tuyên xưng khi nghị hội Công đồng, hoặc khái quát hơn, được cộng
đoàn tín hữu cử hành phụng vụ tuyên xưng. Tuyên xưng “Tôi tin” cũng chính là
Giáo hội, Mẹ của chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng đức Tin của mình và dạy
chúng ta nói lên “Tôi tin” và “Chúng tôi tin” [17].
Chúng ta đã rõ, để chính bản thân chấp nhận đức
Tin, nghĩa là hoàn toàn đồng tâm nhất trí với tất cả những gì Giáo hội đề nghị
chúng ta tin, cần phải hiểu rõ những nội dung đức Tin. Sự hiểu biết về đức Tin
dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mặc khải. Vì vậy việc chấp
nhận đức Tin có nghĩa là, khi đã tin, chúng ta hoàn toàn tự do chấp nhận trọn
vẹn mầu nhiệm đức Tin, bởi chính Chúa là Đấng bảo đảm cho mọi điều chúng ta
tin. Người đã mặc khải chính mình và cho phép chúng ta được nhận biết mầu nhiệm
tình yêu của Người [18].
Mặt khác, chúng ta không thể quên, trong bối cảnh văn hóa
của chúng ta, có nhiều người, tuy không nhìn nhận mình có ơn đức Tin, nhưng vẫn
chân thành tìm kiếm ý nghĩa tối hậu và sự thật cuối cùng về hiện hữu của mình
và về thế giới. Việc tìm kiếm này thực là một “tiền đề” của đức Tin, vì nó thúc
đẩy con người bước vào cuộc hành trình dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Quả thật,
bản thân lý trí con người vốn đòi hỏi về “điều có giá trị vững bền và trường
cửu” [19]. Đòi hỏi này là một lời mời gọi mãi mãi, được ghi khắc không thể xóa
nhòa trong tâm hồn con người, để bắt đầu một cuộc hành trình tìm gặp
Đấng mà chúng ta sẽ không tìm kiếm nếu Người đã không đến gặp chúng ta [20]. Chính
đức Tin mời chúng ta đến gặp Người và mở cho chúng ta bước vào cuộc gặp gỡ ấy
một cách trọn vẹn.
11. Để hiểu biết một cách có hệ thống về nội dung đức
Tin, mọi người đều có thể tìm thấy sự trợ giúp quý báu và không thể thiếu trong
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Đó là một trong những thành quả quan
trọng nhất của Công đồng chung Vatican II. Trong Tông hiến Fidei depositum (Kho
tàng đức Tin), không phải ngẫu nhiên được ký vào ngày kỷ niệm 30 năm khai mạc
Công đồng chung Vatican II, Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã viết: “Sách Giáo
lý này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công cuộc canh tân toàn thể đời
sống Giáo hội… Tôi nhìn nhận Sách này như một dụng cụ giá trị và hợp pháp phục
vụ sự hiệp thông trong Giáo hội và như một chuẩn mực chắc chắn để giảng dạy đức
Tin” [21].
Theo đó, Năm Đức Tin phải thể hiện quyết tâm tái
khám phá và học hỏi nội dung cơ bản của đức Tin được trình bày trong Sách Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo với sự tổng hợp có hệ thống và gắn bó hữu cơ. Quả
thật, ở đây chúng ta thấy sự phong phú của giáo huấn mà Giáo hội đã đón nhận,
gìn giữ và giới thiệu trong hai ngàn năm lịch sử của mình. Từ Kinh Thánh tới
các Giáo phụ, từ các bậc Thầy về thần học cho đến các Thánh qua các thế kỷ,
sách Giáo lý là bản ghi nhớ vĩnh viễn về biết bao cách thức Giáo hội
suy ngẫm về đức Tin và tạo sự tiến triển trong giáo thuyết, nhằm giúp các tín
hữu được vững vàng trong đời sống đức Tin.
Qua cách cấu trúc, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo trình
bày sự phát triển đức Tin vươn đến tận những đề tài lớn của đời sống hằng ngày.
Qua các trang sách, có thể thấy điều được trình bày trong sách Giáo Lý không
phải là một lý thuyết, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Người đang sống trong
Giáo hội. Quả thật, sau phần Tuyên xưng đức Tin, là phần giải thích đời sống bí
tích, trong đó Chúa Kitô hiện diện, hoạt động và tiếp tục xây dựng Giáo hội của
Người. Nếu không có phụng vụ và các bí tích thì việc tuyên xưng đức Tin sẽ
không hiệu quả, vì thiếu ân sủng nâng đỡ việc làm chứng của các Kitô hữu. Cũng
vậy, giáo huấn của sách Giáo Lý về đời sống luân lý đạt trọn vẹn ý
nghĩa nếu được đặt trong tương quan với đức Tin, phụng vụ và cầu nguyện.
12. Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo Lý
Hội Thánh Công Giáo sẽ là một công cụ đích thực nâng đỡ đức Tin, nhất là
cho những người quan tâm đến việc huấn luyện các Kitô hữu, một điều rất quan
trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay. Với mục đích ấy, tôi đã mời gọi Bộ Giáo
lý đức Tin, cùng với các Cơ quan hữu trách khác của Tòa Thánh, soạn một Bản
hướng dẫn, đề ra cho Giáo hội và các tín hữu một số chỉ dẫn để sống Năm
Đức Tin này một cách hiệu quả và thích hợp hơn, phục vụ cho lòng tin và
công cuộc truyền giáo.
Quả thật, nhiều hơn so với trước đây, đức Tin hiện đang phải
đối diện với một loạt vấn đề, do não trạng con người đã thay đổi, nhất là ngày
nay cho rằng sự chính xác hợp lý thuộc về lĩnh vực chinh phục của khoa học và
công nghệ. Tuy nhiên Giáo hội không bao giờ sợ chứng minh rằng không có bất kỳ
xung đột nào giữa đức Tin và khoa học chân chính, vì cả hai đều hướng đến chân
lý, mặc dù bằng những con đường khác nhau [22].
13. Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là
điểm lại lịch sử đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về
sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng
góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng
đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người
phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa
Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người.
Lúc này, chúng ta hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu Kitô “là Đấng
khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12, 2): nơi Người mọi khổ đau và khát vọng
của tâm hồn con người được hoàn tất. Niềm vui yêu thương, câu trả lời trước bi
kịch khổ ải và đớn đau, sức mạnh của tha thứ khi bị xúc phạm, và chiến thắng
của sự sống trước hư không của sự chết, tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong
mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Chúa làm người, chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta
để biến đổi nó bằng quyền năng sự phục sinh của Người. Nơi Đấng đã chịu chết và
sống lại để cứu chuộc chúng ta, đã ngời sáng lên biết bao tấm gương đức Tin, in
dấu trong suốt hai ngàn năm lịch sử cứu độ của chúng ta.
Nhờ lòng tin, Đức Maria đã đón nhận lời Thiên thần, và trong
tinh thần vâng phục, Mẹ đã tin vào lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ của Thiên
Chúa (Lc 1, 38). Khi đến thăm bà Isave, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì
những kỳ công Người thực hiện nơi tất cả những ai đã đặt niềm tin nơi Người (x.
Lc 1, 46-55). Mẹ sinh hạ người Con duy nhất trong vui mừng và lo âu, mà giờ đây
Mẹ vẫn còn nguyên vẹn đồng trinh (x. Lc 2, 6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse, hôn
phu của Mẹ, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của
Hêrôđê (x. Mt 2, 13-15). Với đức Tin, Mẹ theo Chúa lúc Người đi rao giảng và ở
với Chúa cho đến tận đồi Golgotha (x. Ga 19, 25-27). Với đức Tin, Mẹ Maria đã
hưởng nếm những hoa trái của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và gìn giữ từng kỷ
niệm trong lòng (x. Lc 2, 19.51), và Mẹ truyền lại những kỷ niệm ấy cho Nhóm
Mười hai tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc ly để nhận lấy Chúa Thánh Thần.
Nhờ đức Tin, các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy (x. Mc
10, 28). Các ngài tin vào lời Chúa loan báo Nước Chúa đã đến và được thực hiện
nơi Người (x. Lc 11, 20). Các tông đồ sống đời sống kết hiệp với Chúa Giêsu,
Đấng dùng lời giáo huấn mà dạy dỗ các ngài, để lại cho các ngài luật sống mới,
qua đó, người ta nhận ra các ngài là môn đệ của Chúa sau khi Người chịu chết
(x. Ga 13, 34-35). Nhờ đức Tin, các tông đồ đã đi khắp thế giới, theo lệnh
truyền mang Tin Mừng cho mọi thụ tạo (x. Mc 16, 15) và không chút sợ hãi, các
tông đồ loan báo cho mọi người niềm vui Phục sinh mà chính các vị đã là những
chứng nhân trung thành.
Nhờ đức Tin, các môn đệ hình thành cộng đoàn đầu tiên, quy
tụ quanh giáo huấn của các Tông đồ, cùng cầu nguyện, cử hành Thánh Thể, đưa
những gì mình có làm của chung để giúp đỡ những anh chị em túng thiếu (x. Cv 2,
42-47).
Nhờ đức Tin, các vị tử đạo hiến mạng sống mình làm chứng cho
chân lý Phúc Âm, chân lý đã làm cho họ được biến đổi và đạt tới ơn cao trọng
nhất của tình yêu là tha thứ cho những kẻ bách hại mình.
Nhờ đức Tin, những người nam và nữ đã dâng hiến đời mình cho
Chúa Kitô, bỏ mọi sự để sống đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm, vâng phục, khó
nghèo và khiết tịnh, là những dấu chỉ cụ thể của niềm mong chờ Chúa sắp đến. Nhờ
đức Tin, đông đảo Kitô hữu đã thúc đẩy những hoạt động bênh vực công lý để cụ
thể hóa Lời Chúa, Đấng đã đến loan báo cho mọi người được giải thoát khỏi áp bức
và được hưởng một năm hồng ân (x. Lc 4, 18-19).
Nhờ đức Tin, qua các thế kỷ, những người nam người nữ thuộc
mọi lứa tuổi được ghi tên trong Sách Sự Sống (x. Kh 7, 9; 13, 8) đã nói lên nét
đẹp khi bước theo Chúa Giêsu tại những nơi họ được kêu gọi để làm chứng về cuộc
sống làm người Kitô hữu: trong gia đình, nơi làm việc, trong xã hội, khi sống
ơn đoàn sủng và thực thi các thừa tác vụ họ đã được kêu gọi.
Nhờ đức Tin, chính chúng ta cũng đang sống: qua việc nhìn
nhận một cách sống động Chúa Giêsu đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và
trong dòng lịch sử.
14. Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội tốt để tăng
cường làm chứng bằng thực thi bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hiện nay đức Tin,
đức Cậy, đức Mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức Mến” (1 Cr
13,13). Với những lời còn mạnh hơn nữa nhằm thúc giục các Kitô hữu, Thánh Tông
đồ Giacôbê khẳng định: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức Tin mà không hành
động theo đức Tin, thì nào có ích lợi gì? Đức Tin có thể cứu người ấy được
chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của
ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc
cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần,
thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức Tin không có việc làm thì quả là đức Tin
chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức Tin; còn tôi, tôi có
việc làm. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có việc làm, còn tôi,
qua việc làm tôi cho bạn thấy đức Tin của tôi’” (Gc 2,14-18).
Đức Tin không có Đức Mến sẽ chẳng mang lại kết quả, còn đức
Mến không có đức Tin, sẽ là một tình cảm luôn phó mặc cho ngờ vực. Đức Tin và Đức
Mến cần có nhau đến mức nhân đức này giúp cho nhân đức kia thể hiện chính mình.
Thực tế có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị
gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp
và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của
chính Chúa Kitô. Nhờ đức Tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh
nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương: “Tất cả những gì các con đã
làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con
đã làm cho chính Thầy” (Mt 25, 40): những điều Chúa nói chính là lời cảnh báo
không được phép quên, và là một lời mời gọi không ngừng đáp lại tình yêu Chúa đã
chăm sóc chúng ta. Chính đức Tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu của
Chúa thôi thúc chạy đến cứu giúp Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận
của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống. Được đức Tin nâng đỡ, với niềm hy vọng
chúng ta hãy nhìn đến công cuộc dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi
chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3, 13; x. Kh 21, 1).
15. Vào cuối đời, Thánh Tông đồ Phaolô truyền cho môn
đệ Timôthê “hãy nỗ lực đạt được đức Tin” (2 Tm 2, 22), với lòng kiên trì như
lúc còn trẻ (x. 2 Tm 3, 15). Chúng ta hãy nghe lời mời gọi này được gửi đến mỗi
người chúng ta, để đừng ai biếng nhác trong đời sống đức Tin. Đức Tin là bạn
đồng hành suốt đời, đem lại một cái nhìn luôn mới mẻ để nhận ra những kỳ công
Chúa đang thực hiện cho chúng ta. Nhằm nắm bắt những dấu chỉ thời đại hiện nay
của lịch sử, đức Tin thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sống động về
sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong thế giới. Điều mà thế giới ngày nay đặc
biệt cần đến, đó là chứng từ đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi
sáng nơi tâm trí, có khả năng khai mở tâm trí của biết bao người đang khao khát
Thiên Chúa và sự sống thật, sự sống vô cùng vô tận.
“Ước gì Lời Chúa hoàn tất hành trình của mình và được tôn
vinh” (2 Tx 3,1): ước gì Năm Đức Tin này làm cho tương quan của chúng ta
với Chúa Kitô vững chắc thêm mãi, vì chỉ trong Người chúng ta mới vững lòng
nhìn về tương lai và được bảo đảm về một tình yêu đích thực và lâu bền. Những
lời thánh Tông đồ Phêrô chiếu tỏa tia sáng cuối cùng về đức Tin: “Anh em sẽ
được hớn hở vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử
thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức Tin của anh em là thứ quý
hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi
Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức Tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen
ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến,
tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một
niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức Tin, là
ơn cứu độ con người” (1 Pr 1, 6-9). Các Kitô hữu cảm nghiệm niềm vui và đau
khổ. Biết bao vị thánh đã từng trải qua nỗi cô đơn! Biết bao tín hữu, kể cả
ngày nay, bị thử thách vì Thiên Chúa vẫn im lặng trong khi họ muốn được nghe
lời Người an ủi! Những thử thách của cuộc sống, đang khi giúp chúng ta hiểu
được mầu nhiệm Thập giá và dự phần vào đau khổ của Chúa Kitô (x. Cl 1, 24), là
khúc dạo đầu cho niềm vui và hy vọng mà đức Tin dẫn đến: “Khi tôi yếu đuối,
chính là lúc tôi mạnh mẽ” (2 Cr 12, 10). Chúng ta vững vàng tin tưởng mạnh mẽ
Chúa Giêsu đã chiến thắng cái ác và sự chết. Với niềm tín thác, chúng ta trao
phó bản thân cho Chúa: Chúa hiện diện giữa chúng ta và chiến thắng quyền lực
của ác thần (x. Lc 11, 20) và Giáo hội, cộng đoàn hữu hình của lòng Chúa thương
xót, ở lại trong Chúa như dấu chỉ giao hòa rõ rệt với Chúa Cha.
Chúng ta hãy phó thác thời điểm ân sủng này cho Mẹ Thiên
Chúa. Mẹ được tuyên xưng là “Có phúc vì đã tin” (Lc 1, 45).
Ban hành tại Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma,
ngày 11 tháng Mười 2011,
năm thứ 7 sứ vụ Giáo hoàng của tôi
Bênêđictô XVI, Giáo hoàng
(Đức Thành chuyển ngữ)
Nguồn WHĐ
–––––––––––––––––––––––––
Chú thích
[1] Bài giảng Thánh lễ Khai mạc sứ vụ
Phêrô của Giám mục Rôma (ngày 24 thángTư, 2005): AAS 97 (2005), 710,
DC 102 (2005) p.547.
[2] x. Bênêđictô XVI, Bài giảng Thánh lễ tại Terreiro do Paco,
Lisbon (ngày 11 thángNăm 2010): Insegnamenti VI, 1
(2010), 673, DC 107 (2010), tr. 515.
[3] x. Gioan Phaolô II, XD. Apost. Fidei
depositum (ngày 11 tháng Mười 1992): AAS 86 (1994),
113-118; DC 90 (1993) tr. 1-3.
[4] x. Phúc trình kết thúc Thượng Hội đồng
Giám mục ngoại thường lần thứ hai (ngày7 tháng Mười
Hai 1985), II, B, a, 4 in Enchiridion Vaticanum, vol. 9, n.
1797, DC 83 (1986),tr.39.
[5] Phaolô VI, Tông huấn Petrum et Paulum
Apostolos, nhân kỷ niệm 1900 năm cuộctử đạo của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô
(ngày 22 tháng Hai 1967): AAS 59 (1967), 196, DC 64 (1967) col.
484-485.
[6] Như trên, 198.
[7] Phaolô VI, Long trọng tuyên xưng Đức Tin,
Bài giảng Thánh lễ kỷ niệm 1900 năm cuộc tử đạo của Thánh Phêrô và
Phaolô, kết thúc Năm Đức Tin (ngày 30 tháng Sáu 1968): AAS
60 (1968), 433 - 445, DC 65 (1968) col. 1249-1258.
[8] Phaolô VI, Tiếp kiến chung (ngày 14 tháng Sáu 1967):
Insegnamenti V (1967), 801, DC 64 (1967) col.. 1162.
[9] Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (ngày 6
tháng Giêng 2001), n. 57: AAS 93 (2001), 308, DC 98 (2001), tr.
88.
[10] Huấn từ tại Giáo Triều Rôma (ngày 22 tháng
Mười Hai 2005): AAS 98 (2006), 52, 103 DC (2006), tr. 63.
[11] Hiến chế về Giáo hội Lumen Gentium, số 8.
[12] De utilitate credendi, 1, 2.
[13] x. Augustinô thành Hippo, Confessions, I, 1.
[14] Hiến chế về Phụng Vụ Sacrosanctum
Concilium, số 10.
[15] x. Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei
depositum (ngày 11 tháng Mười 1992): AAS 86 (1994), 116, DC
90 (1993), tr. 1-3.
[16] Bài giảng 215, 1.
[17] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 167.
[18] x. Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, Ch. III:
DS 3008-3009; Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, số 5.
[19] Bênêđictô XVI, Huấn từ tại Collège des Bernardins,
Paris (ngày 12 tháng Chín2008): AAS 100 (2008), 722, DC 105 (2008), tr.
827.
[20] x. Augustinô thành Hippo, Confessions, XIII,
1.
[21] Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (ngày 11
tháng Mười 1992): AAS 86 (1994), 115et 117, DC 90 (1993), tr.
1-3.
[22] x. Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14
tháng Chín 1998), ss. 34 và 106: AAS 91 (1999), 31-32, 86-87. DC
95 (1998), tr.913 và 938.
© Copyright 2011 -
Libreria Editrice Vaticana