Dẫn Nhập
Nói đến ý nghĩa thần học và linh đạo của việc tôn thờ Thánh
Thể, là nói đến sự phong nhiêu của chính ý nghĩa đó, làm sao để ý nghĩa trở
thành căn nguyên, lẽ sống, lối sống hay đường hướng sống, giúp chúng ta cảm
nghiệm được thực tại Thánh Thể: “Chúa đã
ban Bánh bởi trời cho nhân loại” và “Bánh
có đủ mọi mùi thơm ngon”. Như đọc thấy trong các văn kiện của Công Đồng
Vaticanô II, Thánh Thể được minh định như là
“nguồn và đỉnh cao tất cả đời sống và sứ mạng” của Giáo Hội, là “trung tâm của toàn thể đời sống tín hữu”[1], là bản toát
yếu và tổng luận đức tin Kitô Giáo.[2]Do đó, biết
Thánh Thể là biết tất cả Kitô giáo, sống Thánh thể là sống trọn vẹn nguồn ân
phúc thiêng liêng dồi dào của Thiên Chúa, vì Thánh Thể chứa đựng “chính Chúa
Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta và là Bánh trường Sinh trao ban sự sống cho
nhân loại”[3]. Lời diễn ý
của Hiến Chế Phụng Vụ Thánh có thể cô đọng tất cả:
Trong ý nghĩa đó, cử hành Thánh Thể và tôn thờ Thánh Thể là
hai khía cạnh, “động và tĩnh”, hai nhịp điệu “bất khả phân ly” của một thực tại
cội nguồn là Hy Lễ Tạ Ơn, là bản hoà âm chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa của toàn
thể Giáo Hội. Chính vì vậy, được cử hành như một nghi thức tiếp nối hay nối dài
Thánh Lễ, việc tôn thờ Thánh Thể, hay chầu Thánh Thể giúp chúng ta nghiệm lại
được những hiệu quả của ơn cứu độ từ trong cuộc cử hành tưởng niệm Mầu Nhiệm
Vượt Qua của Đức Kitô, là “Nguồn mạch bất
tận của đời sống tâm linh”,[5]là nơi phát
sinh “các đức hạnh”,[6]là “căn nguyên và trung tâm đời sống linh mục” và
là “nguồn mạch và chóp đỉnh của việc Phúc
Âm hoá”.[7]Bởi vậy, ngay
từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội, các tín hữu đã ý thức sâu xa về sự hiện diện
cận kề của Chúa Phục Sinh nơi nhiệm tích Thánh Thể, vì biến cố Vượt Qua của
Người vừa là “về cùng Cha”, vừa là “đến với” chúng ta. Cộng Đoàn các tín hữu đã
trân trọng lưu giữa Mình Thánh Chúa như là Bánh Trường Sinh, để đem đến cho các
bệnh nhân, hoặc để dành cho những ai, vì bị cách trở, không thể đến tham dự
nghi thức bẻ bánh. Hơn nữa, vào thời Trung Cổ, khi các tín hữu không có mấy cơ
hội được rước lễ thường xuyên, vì những hoàn cảnh sống với nhiều lý do và tình
huống phức tạp, lòng họ ước ao được chiêm ngắm Bánh Thánh lại càng dâng cao
mạnh mẽ. Từ đó, việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh Lễ, với nhiều hình thức sùng
mộ khác nhau, được khởi đầu và phát triển ngày càng sâu rộng trong đời
sống Giáo Hội. Tiếp theo là Công Đồng Vaticanô II, và nhất là cho đến những năm
gần đây, vị trí, tầm quan trọng cũng như giá trị của việc tôn thờ Thánh Thể
được Giáo Hội chính thức xác nhận, minh định và đề cao như là một hành vi phụng
tự. Chính Thánh Lễ khơi nguồn cho lòng tôn sùng Thánh Thể và lòng tôn sùng
Thánh Thể quy hướng về cuộc cử hành Phụng Vụ Thánh Lễ. Trong Thông Điệp
“Mysterium Fidei” [Giáo Lý về sự Tôn Sùng Thánh Thể], Đức GH Phaolô VI đã chứng
thực:
Giáo Hội diễn tả niềm tin vào sự hiện diện của Mình và Máu
Đức Kitô trong Thánh Thể và không ngừng thể hiện một lòng tôn thờ chỉ dành
riêng cho Chúa.Giáo Hội đã và tiếp tục tổ chức nền phụng tự tôn thờ đối với bí
tích Thánh Thể, không những trong Thánh Lễ mà còn ngoài giờ cử hành Thánh Lễ
nữa, qua việc cẩn thận lưu giữ những bánh lễ đa được hiến thánh, qua việc trưng
bày cho các tín hữu long trọng chầu kính...Cầu nguyện trước Thánh Thể, những
giờ tôn thờ Thánh Thể cách ngắn ngủi, lâu giờ hay hằng năm, chầu Phép lành,
kiệu Thánh Thể, các Đại hội Thánh Thể.[8](56-74).
Cũng thế, trong Tông Thư “Dominicae Cenae”[Về mầu nhiệm
Thánh Thể và việc phụng thờ Mình và Máu Thánh Đức Kitô], chúng ta có thể thấy
rõ chủ đích của Đức Gioan Phaolô II, về mối tương quan giữa Thánh Thể và chức
linh mục thừa tác, khi Người nhấn mạnh: “vì linh mục là người của Thánh Thể,
nên việc tôn thờ Thánh Thể cần được toả chiếu trong đời sống linh mục.” Bởi
vậy, linh mục hiện hữu là “do Bí tích Thánh Thể” và “cho Bí tích Thánh Thể”. Và
ở phần kết luận Tông Thư, Người đã khẳng định:
Mầu nhiệm này cũng được ban tặng cho toàn thể dân Chúa, cho
tất cả những ai tin vào Đức Kitô nhưng riêng chúng ta là linh mục, là những
người đã được Chúa trao Bí tích Thánh Thể để phục vụ người khác. Họ là những kẻ
mong đợi nơi chúng ta một chứng tá đặc biệt về lòng sùng kính và mến yêu bí
tích này”.[9]Vì vậy, “Sự tôn thờ là câu đáp trả trọn nghĩa với “Tình
Yêu”của Đấng đã hy sinh cho đến chết trên thập giá, và đó là cách thức
chúng ta “Tạ ơn”,nghĩa là dâng lên lời tri ân của chúng ta, lời ngợi khen, vì
chúng ta đã được cứu thoát nhờ cái chết của Người và được chia sẻ đời sống bất
tử nhờ cuộc phục sinh của Người”.[10]
Từ những suy tư trên, với tất cả tâm tình của người Mục Tử,
Đức Gioan Phaolô II đã mời gọi các linh mục đáp trả sự mong đợi của Giáo Hội
một cách quảng đại, khi nhận định rằng:
Hội Thánh và thế giới ngày nay đang rất cần việc tôn sùng
Thánh Thể. Đức Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Chúng ta
đừng tiếc thời giờ để đến gặp Người trong tôn thờ, trong chiêm ngắm đầy đức tin
và luôn sẵn sàng đền tạ các tội lỗi của thế giới. Chớ gì chúng ta không bao giờ
ngưng nghỉ việc tôn thờ Thánh Thể!.[11]
Như thế, theo những lời huấn dụ, những thao thức đó, chúng
ta cảm nhận được lý do sâu xa cũng như ý nghĩa thiêng liêng của việc tôn
thờ Thánh Thể, để có thể “nếm thử và
nghiệm xem cho biết Chúa thiện hảo dường bao”. Bởi vì tôn thờ Thánh Thể
chính là cầu nguyện trước Thánh Thể. Theo nguyên ngữ La-tinh: “Adoratio”: tôn
thờ, gồm chữ “Ad” là hướng đến hay đến gần và “Ora” là cầu nguyện. Như vậy, tôn
thờ thánh Thể là một cuộc xuất hành thiêng liêng, nghĩa là ra khỏi chính mình,
vượt qua cõi riêng mình, mà đến gặp gỡ Chúa, trong nhiệm tích Thánh Thể, để
trọn vẹn sống cho và chạm được Đấng mà tất cả hiện hữu của Người là “xuất
hành”, là tình yêu siêu vượt bản thân, đã đến trước chúng ta, đang chờ đợi và
ngự giữa chúng ta, trong tấm bánh rất đơn sơ, tầm thường, như một lời ngỏ: “Hãy đến mà xem! Hãy đến mà thờ lạy!”. Hơn
nữa, nếu kinh nghiệm tôn thờ đích thực là kinh nghiệm cầu nguyện, thì đó không
phải là kinh nghiệm ở giai đoạn cuối, mà thực ra là kinh nghiệm ở ngay giây
phút thánh thiêng khởi đầu, như một cuộc hội ngộ, một cách tiếp xúc với Chúa,
trực tiếp nhất, thâm sâu nhất, bao hàm chiều kích hiện diện chủ vị và liên vị,
đối thoại, hiệp thông và hoàn vũ trong đức tin, nếu như “giác quan không cảm
thấy gì”.
1. Hiện diện liên chủ
vị, đích thân và đích thực
Trước hết, tôn thờ Thánh Thể là cầu nguyện trước Thánh Thể,
là đến với Chúa, hiện diện bên Chúa, như lúc nào Chúa cũng hiện diện và sự hiện
diện của Người là sự hiện diện trong Thần Khí bao trùm cuộc sống của chúng ta.
Đó là một sựhiện diện chủ vị, đích thân và đích thực trong tương quan liên vị
với Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Một sự hiện diện thâm tình trọn
vẹn, thiêng liêng huyền diệu của Đấng Phục Sinh, nhưng tự hạ, tự hiến và ẩn
mình dưới hình dạng khiêm cung của Tấm Bánh. Tuy thật bé nhỏ, mọn hèn, mà Tấm
Bánh có thể lấp đầy mọi khoảng cách giữa: “Này
Thầy đây, đừng sợ !” (Mt 28:10) và “Này
con đây, lạy Chúa !”, để chỉ muốn nói lên một điều tinh trắng, tinh tuyền,
thật tình, tròn đầy của tình yêu chất chứa trong một Tấm Bánh: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế” (Mt 28: 20).
Và nếu hiện diện đích thân, đích thực, trong kinh nghiệm
nhân linh, vẫn luôn là sự hiện diện với một ai đó yêu thương và sống cho chúng
ta, thì đó chính là sự hiện diện vì nhau và cho nhau từ hai phía của một tương
giao thân tình. Phải chăng, vì thế, mà sự hiện diện “thực sự, đích thực và bản
thể” của Đức Kitô trong Thánh Thể có thể được hiểu và cảm nhận trong bối cảnh
của cấu trúc liên vị, bằng một ngôn ngữ hết sức giản dị, đơn thành hầu như vô
ngôn lặng lẽ:“Chúa đó” và “con đây”. Như vậy, trước Thánh Thể, khi tôn thờ Đấng
đang hiện diện “ở đây và lúc này”, chúng ta có thể xác tín rằng Người muốn
chúng ta được ở nơi Người đang ở, trong ngày hôm nay, trong “giờ” của Người,
giờ cứu độ siêu vượt trên mọi “thời giờ” của lịch sử, giờ tình yêu trong chính
cung lòngcủa Người: “Hãy ở lại trong Thầy”
(Ga 15: 4), “để niềm vui của anh em được nên trọn”. Phải chăng sự hiện diện
thân mật và sống động đó đã nói lên tất cả ý nghĩa “bị đâm thâu” của trái tim
Chúa và nỗi khát mong khôn nguôi của con người? Vì Chúa như thể: “Tôi khát” (Ga 19:28) trên đỉnh Canvê
năm xưa, còn chúng ta như thể: “Lạy Thiên
Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con
đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn,
không giọt nước” (Tv 63:2). Như thế, sự hiện diện Thánh Thể là sự gặp gỡ
của hai cơn khát, tìm đến nhau và cùng tìm về gặp gỡ. Khi tôn thờ Thánh Thể là
lúc chúng ta dừng chân lại, ở bên Chúa, sống với Chúa, để học biết sự thật về
Chúa là Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm
nhường” (Mt 11:29), vì có nơi nào hơn nơi đây, Người đã trở nên nghèo khó,
để chúng ta được giầu có trong ân sủng. Người đã tự hiến chính mình, cho chúng
ta được sống dồi dào sung mãn (Ga 10:10). Người đã “co cụm” hiện hữu của mình,
mặc lấy thân phận mỏng manh thấp hèn của tấm bánh, hoàn toàn trút bỏ vinh
quang, không còn sống cho chính mình nữa. Tất cả hiện hữu của Người trọn vẹn là
hiến dâng, trọn vẹn là sống vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, cho chúng ta
được bước vào cảnh vực thần thiêng, được “ở cùng Người”, và “Người ở cùng chúng ta”, bởi vì vĩnh cửu
là gì nếu không phải là “Hôm Nay”, là hiện tại ngay giữa dòng thời gian thắm
thoát trôi qua. Nói cách khác, Đức Kitô, “hôm
qua, hôm nay và ngày mai”, là Đấng duy nhất, đứng trên đỉnh viên mãn của
thời gian, đã mặc lấy thân phận thời gian của con người, để dẫn đưa con người
vào trong chính Người, là “Hiện Tại Vĩnh Hằng”. Vì là Tình Yêu siêu vượt trên
tất cả, nên Trái Tim của Người mênh mông hơn thân phận giới hạn của chúng ta
với những nỗi yếu hèn của con người trong thời gian và không gian. Một lần nữa,
như lời Đức Gioan Phaolô II trong “Dominicae Cenae”:
Sự găp gỡ liên chủ vị làm nên bản chất của việc tôn thờ
Thánh Thể: Trong tư cách là thầy dậy và người bảo vệ chân lý cứu độ về Mầu
nhiệm Thánh Thể, chúng ta cần chú tâm đến ý nghĩa và chiều kích của việc gặp gỡ
Đức Kitô trên bình diện bí tích và sự thân mật với Người. Thật vậy, đó là những
điều tạo nên bản chất của việc tôn sùng Mầu nhiệm Thánh Thể.[12]
Như thế, tôn thờ Thánh Thể có thể mở cho chúng ta cơ hội để
sống “nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa”,
để yêu thương, để biết “hiện hữu, sống và cử động”, để xuất hành ra khỏi chính
mình và trải rộng thân mình đến mức vô biên vô tận là được hiệp nhất với Thiên
Chúa, Đấng Vĩnh Cửu. Như lời Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, để con biết con”. Tôn thờ Thánh
Thể cách đơn thành, vô vị lợi là tiếp cận với khả năng khai mở cao vời nhất của
con người, và đó mới là ý nghĩa tâm linh đích thực của hiện hữu và đời sống
kinh nguyện.
2. Đối thoại trong
thinh lặng của cõi lòng
Hơn nữa, sự hiện diện “thực sự, đích thực và bản thể” của
Đức Kitô trong Thánh Thể, để chúng ta tôn thờ, chúc tụng tôn vinh, và thuận
tình gặp gỡ sẽ dẫn đưa vào một cuộc đối thoại trong thinh lặng, để cho tình yêu
lên tiếng. Bởi vì, trở về với nguyên ngữ “Adoratio”, tôn thờ còn mang ý nghĩa
chiêm ngắm, chiêm nghiệm hay trầm trồ thán phục khi chợt nhìn ra vẻ đẹp cuốn
hút của một ai đó chúng ta thực tình yêu mến, và ngưỡng mộ đến độ tôn thờ. Vì
thế cầu nguyện không nhất thiết là nói nhiều, mà là yêu mến nhiều. Hay như kinh
nghiệm của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: “Đối
với tôi, cầu nguyện là sự hướng lòng lên, là cái nhìn đơn sơ, là tiếng kêu tri
ân và yêu mến, trong cơn thử thách, cũng như lúc vui mừng”.[13]Thật
vậy, trong giờ tôn thờ Thánh Thể, khi Mình Thánh Chúa được trưng bày, khi Lời
Chúa được công bố, đó là lúc Chúa đến trong Lời của Chúa và nói với chúng ta “qua lời của con người, theo cách nói của
con người, và khi ngài phán bảo, cũng là lúc ngài tìm gặp chúng ta” (Augustinô).
Những bài ca tôn vinh chúc tụng được cất lên, những bài đọc với phần suy niệm
theo phương cách “lectio divina”, những câu kinh khoan thai và lời nguyện cầu
dịu dàng, có thể giúp chúng ta ra khỏi những mối quan tâm hay lo âu về chính
mình, và khơi dậy ước muốn được dưỡng nuôi, được sống bằng Mình Thánh Chúa, khi
gậm nhấm Lời Chúa một cách thiêng liêng trìu mến. Tôn thờ như thế, tuy có
thể là cầu xin khấn nguyện hay thổ lộ tâm tình, nhưng thực ra chính là để mình
được Chúa yêu thương, là phó thác, là thanh thản buông xuôi tất cả vào trong
cung lòng Người.
Trong ý nghĩa đó, cầu nguyện trước hết là thinh lặng. Nhưng
thinh lặng không phải chỉ là im lặng, mà thực ra là thái độ lắng nghe Đấng là
Lời và Bánh hằng sống của Thiên Chúa. Như vậy, hành vi tôn thờ là lãnh nhận, là
chờ đợi tình yêu của Chúa. Đó là sự chọn lựa bước vào tương quan yêu thương với
Người, vào trong sự hiện diện khiêm hạ thầm kín, nhưng bao trùm tất cả, và chấp
thuận để Người tự do lên tiếng khi nào và cách nào Người muốn, như “nước được
đem vào đây để hoá thành rượu” bội hậu trong tiệc cưới Cana, vào chính “giờ” của
Chúa (Ga 2:1-11). Nói cách khác, tôn thờ là thinh lặng như “một ước ao cháy
bỏng” để cho trái tim đàm đạo với trái tim, cho tình gọi tình, hay như lời vịnh
gia: “Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm. Khi
tiếng thác của Ngài kêu dội ầm vang” (Tv 42:8). Cũng chính ở đây, chúng ta
có thể nhận thức rằng, cuộc đời và thế giới chúng ta đang sống đầy những nỗi
vất vả truân chuyên, với biết bao nhiêu phấn đấu trăm chiều, nhọc nhằn, và có
đôi khi hay nhiều khi bị chìm ngập trong những lời nói “trống trải” ồn ào, bên
cạnh những cám dỗ “vô nghĩa” và sự đời náo động. Có lẽ giờ chầu Thánh Thể là
thời điểm thích hợp nhất trong một ngày sống cho tâm thức phân định lắng nghe,
nhất là đặt mình trong tư thế nội tâm cũng như trong cung cách hay thái độ
“thinh lặng” nhẹ nhàng, đầy ý thức, tỉnh thức, và chú ý tới những điều Chúa
muốn nói với chúng ta, qua các biến cố và mọi sự thể, để chính Chúa đem đến sức
mạnh thần linh, nguồn an vui, niềm hy vọng và ơn cứu độ cho tâm hồn.
Khi người tôn thờ đã quen dần với sự tĩnh lặng và chỉ để cho
tâm hồn lên tiếng, họ sẽ cảm thấy toát lên một niềm vui, một sự bình an sâu
thẳm trong nội giới, nhất là khi tâm tình cầu nguyện của trái tim bộc phát tự
nhiên với hơi thở đều đặn mà không cần nỗ lực vất vả. Cảm nghiệm đó chính là
một cảm thức về ân sủng của Thiên Chúa như là siêu nhiên bao trùm và thăng tiến
tự nhiên, khi tự nhiên thuận tình hoà mình vào trong siêu nhiên. Đó chính là
lúc tâm hồn được Thần Khí biến đổi, được tái sinh, khi chúng ta cảm nhận mình
thực sự được yêu thương, tha thứ, được chữa lành những vết thương tâm và những
nỗi lo sợ của phận người, được đón nhận và nâng lên để làm bạn hữu với Chúa, và
liên kết với các Thánh của Người: “Thầy
không còn gọi anh em là tôi tớ nữa... Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu của
Thầy” (Ga 15:15). Như vậy, phải chăng tôn thờ Thánh Thể là “xuất
hành”, là đánh mất chính mình mỗi ngày trước Thánh Thể, để rồi lại tìm được
chính mình, một bản ngã phong phiêu, chân thực, hội nhất trong Chúa, để “hồn
con, con vẫn trước sau, giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình” (Tv 131:2), và
từ đó mà niềm hoan lạc reo lên: “Linh hồn
tôi ngợi khen Đức Chúa, trong Đấng Cứu Độ tôi” (Lc1:46).
3. Hiệp Thông Sự Sống
và Tình Yêu
Từ những kinh nghiệm trên đây, chúng ta nhận thấy, tôn thờ
Thánh Thể trở thành một hành vi, một thái độ chiêm niệm, được đánh nhịp bởi các
động từ “nhìn lên” Bánh Hằng Sống, “chiêm ngắm” Thánh Nhan Chúa, và “cảm nếm”
tình yêu của Người. Tất cả được nội tâm hóa, chìm sâu vào cõi lòng như một kinh
nghiệm chủ vị, một cuộc gặp gỡ thâm tình, hiệp thông với chính Ðấng đã mạc khải
về mình như là “Đường, Sự thật và là Sự
Sống” (Ga 14: 6), và Đấng ấy đã làm tràn đầy mọi khoảng không gian của cuộc
sống chúng ta. Cũng nơi đây, có thể nói, Bánh Thánh Thể chuyên chở tình yêu của
Đức Kitô, Đấng tự hiến ban thân mình cho nhân loại. Chính vì thế, tự bản chất,
tôn thờ Thánh Thể không hệ tại ở việc dâng lễ vật, nhưng tiên vàn ở việc lãnh
nhận tình yêu tự hiến của Đức Kitô, đến mức tuyệt đối là được thông hiệp với
Đấng là Hy Lễ Tạ Ơn, để chính Người đưa chúng ta vào cung lòng Người, và cùng
với Người mà chúng ta được dâng lên, được trở nên những kẻ thờ phượng đích thực
trong tinh thần và chân lý. Nói khác đi, khi cầu nguyện trước Thánh Thể, chúng
ta tôn thờ Người Con của Thiên Chúa đã hiến ban sự sống mình cho con người, để
con người được hiệp thông với Người mà trở nên con cái Thiên Chúa và anh em của
mọi người. Lời giảng sâu sắc của Thánh Augustinô, thiết tưởng, có thể diễn ý:
Nếu các tín hữu cung kính Mình Thánh Chúa Kitô, thì họ hiểu
biết thân mình Người. Nếu họ sống bằng thần khí Đức Kitô, thì họ phải trở
nên thân mình Người… Bản chất của Bánh … Tất cả chỉ là một tấm bánh và
một thân thể. Ôi! nhiệm tích tình yêu! Dấu chỉ hiệp nhất! liên kết Đức ái! Ai
muốn sống thì nên nhận biết đâu là nguồn mạch sự sống. Xin hãy đến đây, hãy tin
và sát nhập vào đây để được sống.[14]
Và như thế, chính nơi đây, khi chiêm ngắm Thánh Thể, chúng
ta có thể trở thành điều mình chiêm ngắm và học biết hiến dâng sự sống mình cho
Thiên Chúa và nhân loại. Năm 1996, Đức Gioan Phaolô II, trong lá thư chúc mừng
ngày kỷ niệm 400 năm việc sùng kính 40 giờ chầu, đã viết rằng:
„Sự gần gũi với Chúa
Ki-tô Thánh Thể trong thinh lặng và chiêm ngắm không tách chúng ta xa khỏi
những người đương thời, trái lại, nó làm chúng ta mở ra trước những niềm vui và
nỗi khổ của nhân loại, mở rộng trái tim chúng ta vươn tới toàn cầu. Bất kỳ ai
cầu nguyện với Đấng Cứu độ Thánh Thể sẽ kéo toàn thế giới vào với Người và nâng
lên cho Thiên Chúa“.[15]
Theo ý hướng đó, chúng ta cũng có thể cảm nhận, như lời Chân
Phước Têrêxa Calcutta: “Trong Thánh Thể,
chúng ta có Đức Giêsu dưới hình bánh, còn trong các khu nhà ổ chuột, chúng
ta nhìn thấy và sờ được Đức Kitô nơi những thân xác nát tan và những trẻ thơ bị
ruồng bỏ”. Bởi thế, có một lần, khi Têrêxa viếng thăm nước Mỹ, một nhóm phụ
nữ hảo tâm đến hỏi là họ có thể làm được gì để giúp đỡ mẹ và công việc bác ái
của hội dòng. Terêxa đã thản nhiện trả lời:
“Sự giúp đỡ lớn lao nhất mà quý bà có thể cho chúng tôi, là dành một giờ mỗi
tuần thinh lặng thờ lạy trước bí tích Thánh Thể”.[16]Phải
chăng việc tôn thờ Thánh Thể giúp ta biết tôn trọng sự hiện diện của Đức Kitô
trong những kẻ nghèo đói, trần truồng, ốm đau, khốn khổ, tù đầy và những cõi
lòng tan vỡ, những tâm hồn cô quạnh bể nát, như là “bí tích” sống động đầy sự
hiện diện của Người. Đức Gioan Phaolô II đã cảm nghiệm được điều đó, khi người
nói: “Nếu việc tôn sùng Thánh Thể có giá
trị đích thực, thì sẽ làm nảy sinh trong chúng ta ý thức về nhân phẩm của mọi
người. Ý thức phẩm giá này trở thành lý do sâu thẳm nhất cho tương quan của
chúng ta với tha nhân”.[17]Từ
nhận thức đó, có thể nói, việc tôn thờ Thánh Thể là cầu nguyện như thể diễn tả
tình yêu, để chính tình yêu biến đổi chúng ta thành khí cụ tình yêu. Và quả
thật, nếu xuất phát từ tình yêu, thì việc tôn thờ Thánh Thể chắc chắn thúc đẩy
chúng ta sống yêu thương, biết phục vụ con người và thế giới này trong mối
tương quan “sống chết” giữa nhân loại với hoàn vũ theo dòng lịch sử, như một
nét đặc thù và sâu thẳm nhất của ơn gọi kitô hữu.
Do đó, khi tôn thờ Đức Kitô trong Thánh Thể, Bánh Thánh còn
làm cho chúng ta nhớ đến những hạt lúa miến, vừa là quà tặng thần linh vừa là
hoa mầu của trái đất do lao công của con người. Và điều này gợi lên trong lòng
chúng ta, từ trong kinh nguyện, ý thức tôn trọng sự sống của muôn loài thụ tạo,
biết tiếp nhận thế giới thiên nhiên như hồng ân cao quý do Thiên Chúa tạo dựng
và tặng ban vì sự sống con người. Nhờ tôn thờ và cử hành Thánh Thể, chúng ta
chiêm ngắm thế giới tự nhiên như là “Nhiệm Thể Đức Kitô”, hòa điệu cùng muôn
loài thụ tạo, trong lịch sử tiến hóavà xác tín rằng sự hoàn kết tương lai của nhân
loại không thể tách rời sự thăng hoa biến đổi của tất cả tạo thành, trong một
vòng tròn của những hy sinh âm thầm. Và nếu ngắm nhìn sâu hơn nữa, trong viễn
tượng vạn thể tương tác và quá trình hình thành bánh rượu, chúng ta có thể hình
dung được sự “hiện diện” của các cánh đồng, và bông lúa chín vàng nhờ ánh nắng
mặt trời rực rỡ, chờ đợi từng cơn mưa tới, rồi lặng lẽ tăng trưởng dưới ánh
trăng ngà và các vì sao đêm lấp lánh. Thật vậy, Thánh Thể là “dấu chỉ” khả giác
được cấu thành, theo lời Giáo Phụ Irênê, “do
hai yếu tố: một thuộc về đất, một thuộc về trời”.[18]Như
thế, không có gì mà không “có mặt” trong bánh: không gian, thời gian, bốn mùa
thời tiết, đất, nước, cỏ cây, mây trời, hơi ấm … mọi thực thể nhân linh, văn
hóa, lịch sử con người và thế giới vật chất gắn chặt vào nhau, nương nhờ nhau
theo một trật tự hài hoà để hiện hữu. Tấm Bánh, tuy nhỏ bé giữa muôn thụ tạo,
nhưng kín đáo chứa đựng chính Đấng là “Đầu” của vũ trụ mênh mông (Eph 1:10; Cl
1:15-20). Như lời giảng của Giáo Phụ Justinô:
Chúng ta nên tạ ơn Thiên Chúa vì công trình sáng tạo và muôn
loài thụ tạo trong hoàn vũ … Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và
vạn vật vì loài người, cũng như đã giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi, để
chúng ta được sinh ra trong đó.[19]
Việc tôn thờ Thánh Thể,thật sự, cho chúng ta một cái nhìn
mới về vũ trụ vạn vật, về cảnh vực môi sinh, về ý thức làm người ở cõi đời
chóng qua và đạo đức môi trường. Như Đức Gioan Phaolô II đã nhận định:
Tất cả những gì thuộc về con người được biến đổi và được
nâng cao một cách đặc biệt trong bí tích thánh này, bí tích của lương thực và
thức uống. Việc tôn sùng Mầu nhiệm Thánh Thể không phải là sự thờ phượng một
Đấng Siêu Việt vô phương đạt thấu, cho bằng phụng thờ một Thiên Chúa chiếu cố
đến con người, đó là một sự biến đổi thế giới có tính nhân từ và cứu độ ngay
trong tâm hồn con người.[20]
Kết Luận
Thế giới ngày nay, ngày càng náo động ồn ào, trước mọi thách
đố của các trào lưu tục hoá, hưởng thụ, duy lợi nhận kinh tế, muốn loại bỏ
thánh thiêng ra khỏi phàm trần, thiết tưởng, càng làm cho chúng cảm thấy sự
khần thiết và tầm quan trọng của việc tôn thờ Thánh Thể, như một phương thức
cầu nguyện chân truyền của Giáo Hội. Hơn nữa, như lời kêu gọi của Thượng Hội
Đồng Giám Mục thế giới, cũng như niềm xác tín của Đức Bênêđíctô, khi nói về Tân
Phúc Âm Hoá để loan truyền Tin Mừng, là “tái
phát xuất từ Đức Kitô”. Bởi vì, là “Kitô
hữu không phải là kết quả của một chọn lựa luân lý hay một ý tưởng cao quý,
nhưng là việc gặp gỡ một biến cố, một Ngôi Vị, một cuộc gặp gỡ mang lại cho đời
sống chúng ta chân trời mới và một hướng đi mang tính quyết định”.[21]
Như thế, phải chăng từ trong nhiệm tích Thánh Thể, qua việc
cử hành và tôn thờ, chúng ta có thể tìm thấy căn nguyên, mẫu mực sự sống và
niềm hy vọng, không những của Giáo Hội mà còn của mỗi đời sống kitô hữu? Vì
linh đạo Thánh Thể tập trung vào việc gặp gỡ chính Con Người Đức Giêsu Kitô
đang hiện diện ở giữa chúng ta. Và chúng ta
“đáp lại sự hiện diện của Đức Kitô bằng lời cầu nguyện, ngợi khen và cảm tạ,
bằng ý hướng giao hòa và trung gian cầu khẩn, nhân danh Giáo Hội và thay cho
thế giới”.[22]Sự
gặp gỡ chủ vị và liên vị làm nên bản chất của việc tôn thờ Thánh Thể. Trong ý
nghĩa đó, chúng ta có thể tìm thấy nơi Thánh Thể tất cả nguồn ““ân sủng và chân
lý” rạng ngời của Thiên Chúa. Bởi vì:
Bánh rượu đã thành Thánh Thể vẫn không ngừng nhắc nhở chúng
ta về Bữa Tối của Chúa, về việc tạ ơn của Hội Thánh và về hy lễ ngợi khen của
toàn thể nhân loại. Một cách độc đáo, bánh rượu ấy cho chúng ta thấy rõ sự hiện
diện của Đức Kitô, Đấng đổ tràn sự sống của Người vào trong chúng ta khi trao
ban cho chúng ta Thần Khí của Người.[23]
Như thế, linh đạo Thánh Thể, có thể nói, là linh đạo cội
nguồn của Kitô giáo, là “bản chất, trọng tâm và chóp đỉnh” của đời sống Kitô.
Tất cả các linh đạo khác trong Giáo Hội chỉ có thể là sự kín múc từ Thánh Thể
và quy hướng về nguồn ơn thánh đó. Chính nơi Thánh Thể, tình yêu Đức Kitô gánh
lấy, rửa sạch trái tim phàm trần với những tật bệnh thù oán hận sâu, chia rẽ kỳ
thị, phân biệt đối xử, và dạy cho con người biết chia sẻ cơn đau cùng khốn của
những ai tan vỡ tâm hồn và những chết chóc tang thương của tội ác giữa lòng thế
giới lịch sử. K. Rahner, một nhà thần học nổi tiếng của Giáo Hội đã nói
rằng người Kitô hữu của thế giới tương lai là người có kinh nghiệm thần bí,
nghĩa là kinh nghiệm cầu nguyện thẳm sâu, chiêm nghiệm tôn thờ, thường xuyên
trở về lòng mình như đền thờ của Thiên Chúa, nơi của mọi gặp gỡ, nơi mà sự sống
chân thực bùng vỡ.[24]Nếu
không phải thế, con người hiện đại rất dễ dàng bị cám dỗ rơi vào một thế giới
vô nghĩa, tầm phào vô vọng. Và như Thomas Merton, một nhà tu đức của thời đại
cũng viết rằng Giáo Hội luôn cần một cõi sa mạc giữa lòng đời, để biết “cầu
nguyện không ngừng”, và nhờ lời cầu nguyện đó mà thế giới được cứu rỗi.[25]
Như thế, việc tôn thờ Thánh Thể sẽ làm cho lòng yêu mến Hy
Lễ Tạ Ơn và nỗi khát khao lãnh nhận Mình và Máu Thánh càng thêm mãnh liệt. Cảm
nghiệm thinh lặng khi tôn thờ Thánh Thể mở ra những cơ hội thiêng liêng, không
những để phản tỉnh, hồi tưởng quá khứ và thức tỉnh trong hiện tại, mà còn mở
lòng người hướng tới tương lai cánh chung được hiệp thông trọn vẹn với Đức Kitô
và với nhau như Thiên Chúa đã hứa. Đôi mắt thể xác nhìn lên, nhưng đôi mắt tâm
hồn có thể nhìn thấy một thoáng cảnh “trời mới đất mới” mà Thánh Thể tỏ lộ, cho
chúng ta tiền dự vào “Bàn Tiệc Thiên Quốc” trong giây phút tưởng chừng như mong
manh mà thực ra là “vĩnh cửu” theo dòng suối ân phúc này.
Cuối cùng, Thánh Thể là dấu chỉ của một tình yêu tự hiến
trao ban sự sống. Sự hiện diện “thực sự, đích thực và bản thể” hay đích thân,
chủ vị và liên vị của Đức Giêsu Kitô trong Thánh Thể là dấu chứng của một tình
yêu thiên linh cao nhã, ẩn náu, khép mình, phủ kín dưới bức màn của Tấm Bánh
trắng tinh, giữa thế giới vật thể này, và chỉ một tình yêu hằng muốn hiện diện
kề bên con người để dưỡng nuôi, chan chứa ân cần và nhiệt tình “huỷ mình ra
không” như thế mới đáng tin, vì “đã đến ném lửa vào mặt đất”, với “những ước
mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12:49). Tình yêu của Chúa Thánh Thể mời
gọi một tình yêu đáp trả về phía chúng ta. Người vẫn thiết tha đợi chờ và còn
đang thốt lên lời: “Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi…Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi
dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Con người
vẫn là một tâm hồn khao khát giữa muôn tâm hồn khát khao, chỉ có thể nghỉ an
trong lòng của tỉnh thức và cầu nguyện.
Xin được kết thúc với lời nguyện cầu:
“Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích Mình và Máu Chúa, để chúng con đời đời
tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ hình và sống lại vinh quang. Xin cho chúng con một
niềm sùng kính mến yêu bí tích kỳ diệu này, để luôn được nghiệm thấy ơn cứu
chuộc Chúa ban. Amen.“
Phaolô Vũ Chí Hỷ sss
[1]Lumen Gentium, 1;
Christus Dominus, 30
[2]GLHTCG, 1327.
[3]Presbyterorum
Ordinis, 5; Cf.Lumen Gentium, 42.
[4]Sacrosanctum
Concilium, 47.
[5]Perfectae Caritatis,
6.
[6]Sacrosanctum
Concilium, 10.
[7]Presbyterorum Ordinis,
14, 18, 5.
[8]Phaolô VI, Mysterium
Fidei, 56-74.
[9]Gioan Phaolô II,
Dominicae Cenae, 2:5.
[10]Gioan Phaolô II,
Dominicae Cenae, 3:3.
[11]Gioan Phaolô II,
Dominicae Cenae, 3:6.
[12]Gioan Phaolô II,
Dominicae Cenae, 4:1.
[13]GLHTCG, 709.
[14]Augustinô, (Bài
giảng về Phúc Âm Gioan, 26:13).
[15]Trích dẫn từ Robert
Goedert,“Why Eucharistic Adoration?”, đăng trong http://www.therealpresence.org]
[16]Ibid.
[17]Gioan Phaolô II,
Dominicae Cenae, 6:1.
[18]Irênê (Adv. Haer.,
IV, 18:5). Cf. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Bí Tích Thánh Thể, 248
[19]Justinô, (Tryphon,
41:1). Cf. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Bí Tích Thánh Thể, 246.
[20]Gioan Phaolô II,
Dominicae Cenae, 7:8.
[21]Bênêđíctô XVI, Deus
Caritas Est, 1.
[22]Luật Sống Dòng
Thánh Thể, 30.
[23]Luật Sống Dòng
Thánh Thể, 29.
[24]Karl Rahner, The
Practice of Faith, New York: Crossroad, 1992, tr. 69-90.
Nguồn: Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin