"Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh." (Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận)

Những vấn đề của hôn nhân


Lm Lê Văn Quảng Psy. D.

“Nhân Vô Thập Toàn.” “Con người là bất toàn.” Đây cũng là chủ trương của Alfred Adler và trường phái của ông. Con người không phải là thần thánh nên vẫn còn có rất nhiều thiếu sót, lỗi lầm mà dẫu cho con người có muốn xa tránh cũng không thể tránh khỏi. Vì thế, trong cuộc sống chung của đời sống hôn nhân, con người không thể nào thoát khỏi những xung đột rắc rối xảy ra trong đời sống gia đình. 

BẢN TÍNH CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA CON NGƯỜI 

Những trục trặc rắc rối mà chúng ta gặp trong cuộc sống chung thì vô kể. Suốt cuộc đời chúng ta có thể nói là để khắc phục chướng ngại. Hôn nhân thì có lợi vì nó mang hai người đến với nhau để giúp nhau cùng chiến đấu cho sự sống còn. Mặc dầu hôn nhân giúp chúng ta đáp ứng được những bổn phận của cuộc sống, chính nó cũng là một bổn phận phãi được thõa đáp. Trong hôn nhân chúng ta đối đầu không chỉ những vấn đề thông thường của cuộc sống mà còn nhiều vấn đề đặc biệt xuất phát từ hôn nhân. Chúng ta có thể xem những điều đó như một trắc nghiệm về khả năng chung sống của chúng ta với người khác. 

Những quan sát nầy cho thấy rằng mỗi vấn đề đều có liên quan tới mức độ khác nhau của cá tính và của cuộc sống. Trên bề mặt, nội dung của vấn đề xuất hiện trước. Chúng ta ý thức về sự không thoải mái. Cảm giác chủ quan nầy được gây ra bỡi hoàn cảnh cụ thể rõ ràng. Kinh tế, xã hội, nghề nghiệp, hoặc những xung khắc tính dục xem ra đòi hỏi những cố gắng đặc biệt. Nếu những cố gắng không giải quyết được, sự không vui thích và chán nản theo sau. Ngày xưa, sự giúp đỡ và hướng dẫn bị giới hạn đối với những qui chế đặc biệt, là những điều cần phải được tuân giữ để bảo đảm sự cộng tác và hài hòa trong đời sống hôn nhân. Những đề nghị được cống hiến thì thuộc về kỷ thuật, giới thiệu những tiến trình kỷ thuật đặc biệt phải được tuân theo để thõa đáp những hoàn cảnh cụ thể rõ ràng. Những luật lệ được viết ra để hướng dẫn hành động con người. Ngày nay, các nhà tâm lý tìm đằng sau bất cứ vấn đề cụ thể nào một cấu trúc hoàn toàn khác với vấn đề hiển nhiên tự nó, là cái có thể được xem như là một triệu chứng. Mỗi vấn đề có liên quan đến cái toàn thể của hoàn cảnh sống, là cái được tạo nên bỡi những sức mạnh bên ngoài và thái độ của chúng ta bị ảnh hưởng từ quá khứ như: cách sống, sự huấn luyện, và sự chuẩn bị của chúng ta. 

Bất cứ sự thảo luận có tính cách xây dựng nào về những vấn đề đang gây sự bất đồng và sự đụng độ đều mặc khải cho chúng ta thấy những lỗi lầm tâm lý là những cái đã gây nên những vấn đề rắc rối hoặc đang làm cản trở những giải quyết thõa đáng. Dẫu xem ra đối với chúng ta là: sự đối đầu của chúng ta với cuộc sống mang lại những đụng độ cụ thể và thật sự, là những cái đã mang lại những tổn thương, đau đớn, và ngay cả sát hại, nhưng thật ra sự xung khắc chỉ nằm trong chính chúng ta. Câu hỏi sự thật có hiện hữu không hoặc chỉ có trong quan niệm chúng ta về nó, vẫn còn là một vấn đề triết lý và là một vấn đề khó hiểu, làm chúng ta dễ bị lẫn lộn. Ở đây chúng ta đang sống trong một thế giới tâm lý, một thế giới sẽ hoàn toàn khác biệt khi chúng ta nhìn đằng sau bề mặt của một vấn đề. Sự phân tích những vấn đề cụ thể cho thấy sự khác biệt căn bản giữa vẻ mặt bên ngoài của vấn đề và những sức mạnh tạo nên nó. Mỗi vấn đề là một biểu lộ sức mạnh của cá thể và của xã hội nằm bên dưới bề mặt. Sự giải quyết những xung khắc đòi hỏi sự thấu hiểu những sự việc đang nằm bên dưới cũng như những hoàn cảnh và những cá tính có liên quan. 

CHỦ QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ 

Bao lâu còn sống, ta còn chứng kiến: quyền lực sẽ chống đối nhau, quyền lợi sẽ choảng nhau, và những đòi hỏi sẽ xung khắc nhau. Sự sống sẽ nhường lối cho sự chết và sự phát triển sẽ làm sống lại sự hủy diệt. Điều đó thì đúng cho con người, sinh vật, gia đình, quốc gia, và thế giới. Sự xung khắc và đụng độ không có nghĩa là đau khổ, ngay cả sự chết cũng ít khi đau đớn. Những điều không may xảy ra chịu trách nhiệm cho một số những đau khổ cũng như những bất hạnh của chúng ta. Thật khó tin nhưng lại đúng, đó là sự chết, bệnh tật, chiến tranh, và nghèo khổ chỉ gây một phần nhỏ của những khốn cùng của con người hôm nay. Khả năng thích nghi của con người vào những hoàn cảnh bi đát nhất thì thật là lạ lùng. Đau khổ xảy ra trong chính chúng ta. Nó đến từ thái độ chúng ta đối với sự việc. Nó nằm trong đầu óc chúng ta. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không ý thức về hoàn cảnh sống, trái lại chúng ta nhận thức hơn bao giờ hết cái tương quan giữa sự kiện và lý trí. Chúng ta biết lý trí con người tạo nên sự kiện và hoàn cảnh, nhưng cũng chính nó bị kích động bỡi sự kiện và cảm nghiệm. Có sự tương quan giữa cá nhân và môi trường của nó. Nhưng bất cứ tình trạng nào dù phấn khởi hay không phấn khởi đều tuỳ thuộc vào hoàn cảnh theo mức độ giới hạn. Thái độ của chúng ta nói lên sự chấp nhận hay từ khước, và chỉ sự khước từ mới được nối liền với cảm giác không vui thích. 

Thái độ chúng ta xác định ý nghĩa của sự kiện. Sự kiện tự nó, sự sống tự nó, không tốt không xấu, không vui không chán. Chính thái độ hay phản ứng của chúng ta mới đáng kể. Hầu hết mọi sự đều chứa đựng những cái có thể, ngay cả cái chết hoặc đau khổ cũng có thể chấp nhận và chào đón. Đau đớn có thể là dấu hiệu của sự tiến triển hoặc chữa lành như sinh con hoặc như là dấu hiệu đầu tiên của sự bình phục đối với bệnh tê liệt; vì thế, đau đớn ở đây là một điều rất thích thú, một nỗi vui mừng lớn lao, và là một niềm hy vọng đầy tràn nữa. Có thể nói được rằng mình có thể rút được cái hay, cái tốt từ bất cứ cái gì, và cái xấu cũng vậy. Hoàn cảnh nào cũng có thể tiêu diệt hay kích động một tương lai. Sự quyết định riêng của chúng ta, cái tiên kiến của chúng ta hướng dẫn cái nhìn của chúng ta đối với cái đẹp hoặc cái xấu và làm chúng ta nhìn thấy sự hữu ích hoặc tai hoạ. Thành kiến biến sự thật thành sự tưởng tượng: chúng ta thấy điều chúng ta thích thấy và tìm được điều chúng ta mong tìm. Chúng ta học bằng kinh nghiệm theo mức độ giới hạn vì chúng ta thường tạo nên những kinh nghiệm, điều đó có nghĩa là chúng ta xếp đặt chúng và cắt nghĩa chúng theo như ý chúng ta muốn. 

Sự cắt nghĩa quá lý tưởng về cuộc sống  sẽ bị tố cáo là quên mất thực tế phức tạp được sản sinh bởi những điều kiện bên ngoài chúng ta. Theo kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta, cuộc đời chúng ta dường như bị quyết định bi những sức mạnh bao quanh mà so với những sức mạnh đó, sức mạnh chúng ta xem ra nhỏ bé. Những điều kiện vệ sinh, bảo đảm kinh tế hoặc thất nghiệp, chiến tranh hoặc sự phồn vinh có ảnh hưởng quyết định trên giòng đời sống chúng ta. Một nhóm người bị ngược đãi và bị đàn áp, có thể ít bao gồm hoặc sản sinh những cá nhân hạnh phúc, và những người đói khổ ít khi lạc quan. Có phải những sức mạnh xã hội không quan trong hơn những thái độ cá nhân không? 

Những quan điểm mâu thuẫn có trách nhiệm cho nhiều hiểu lầm trong những liên hệ cá nhân, trong sự nghiên cứu, và trong việc hướng dẫn. Chủ nghĩa vật chất và tâm linh đại diện cho những bộ mặt khác nhau của đời sống. Có một khoảng thời gian rất lâu, người ta chú trọng đến con người về phương diện kinh tế và xã hôi, điều đó thuộc chủ nghĩa vật chất; những quan niệm về tôn giáo và triết lý trái lại thuộc chủ nghĩa tâm linh. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đang hướng về một quan niệm toàn diện về cuộc đời. Chúng ta tìm thấy trong tâm lý cũng như trong xã hội cả hai khuynh hướng vừa thực tế vừa lý tưởng. Những nhà tâm lý về nhân cách chỉ công nhận những ảnh hưởng cụ thể trên cá nhân trong khi các nhà tâm lý về ngôn ngữ xem những cách cắt nghĩa và quan niệm cá nhân như là những yếu tố quyết định. Xem ra khó hoà nhập cả hai quan điểm. Trong cố gắng hòa hợp hai bộ mặt nầy, cả hai xem ra đều đúng nhưng lại mâu thuẫn nhau, chúng ta nhận được sự giúp đỡ từ khoa vật lý học hiện đại. Các nhà vật lý cho thấy rằng cái chúng ta gọi là nguyên nhân là qui luật của con số lớn, trong khi một phân tử xem ra không nhất định và không thể tiên đoán trước về di chuyển và tốc độ của nó. Áp dụng cho những vấn đề con người, quan niệm về nguyên nhân có những hậu quả hấp dẫn. 

Những yếu tố xã hội là những ảnh hưởng vật chất quyết định số phận của đám đông. Những ảnh hưởng như thế có tính cách quyết định cho một số lớn chứ không cho cá nhân. Chẳng hạn, nhân số ở Mỹ thất nghiệp tùy theo điều kiện xã hội và kinh tế mà ảnh hưởng của chúng thì rất lớn lao. Bất cứ sự thăng tiến nào của những điều kiện nầy đều sản xuất sự gia tăng công việc và bất cứ sự thoái hoá nào cũng đều làm giảm công việc. Tương quan nầy là chắc chắn. Nhưng dẫu cho anh và tôi thất nghiệp thì việc đó cũng không nhất quyết bỡi kinh tế và xã hội, cũng không bỡi con số người thất nghiệp. Nó tùy thuộc cách chúng ta đáp trả sự cần thiết để có cuộc sống. Nếu chúng ta cố gắng chịu khó hơn, chúng ta có thể tìm được công việc hoặc chúng ta có thể tạo nên công việc. 

Đây là phương cách lý tưởng để giải quyết vấn đề một cách trái ngược với chủ nghĩa quyết định của nguyên nhân. Cả hai phương pháp có giá trị rõ rệt nếu chúng ta phân biệt cách rõ ràng rằng cái đầu nên được dùng trong việc xem xét những vấn đề cá nhân và cái thứ hai trong việc phán đoán những điều kiện tổng quát. Tỉ lệ phần trăm của những người tự tử trong cộng đồng vẫn giữ không thay đổi một cách lạ lùng từ năm nầy qua năm khác, và có liên hệ đến điều kiện kinh tế hoặc liên hệ đến môi trường chính trị và xã hội là những cái gây nên sự thăng giảm trong con số. Suốt thời gian chiến tranh và cách mạng, con số tự tử thường giảm. Nhưng cá nhân có tự tử hoặc không thì hoàn toàn đôc lập với giá gạo và tình trạng chiến tranh. 

Dầu bị lôi kéo bởi mọi ảnh hưởng, hành động của họ không hoàn toàn bị quyết định bởi những ảnh hưởng đó. Không có yếu tố nào khác quyết định, cũng không có một quyền lực không thể thay đổi nào khác trên họ. Chính cá nhân họ hoàn toàn tự do lập chương trình và làm theo chương trình đó. Thái độ của họ được tạo thành trong một khoảnh khắc nhưng có nền tảng và phù hợp với lối sống cá nhân, quyết định những bước nào họ sẽ đi và hướng nào họ sẽ di chuyển. 

NỀN TẢNG CỦA NHỮNG XUNG KHẮC HÔN NHÂN

Tất cả những vấn đề thuọc về hôn nhân đều có nền tảng xã hội của thời đại chúng ta. Đây là lý do tại sao, như chúng ta đã lưu ý, những vấn đề của hàng ngàn, hàng vạn người đàn ông cũng như đàn bà đều giống nhau. Những mẫu xung đột giữa vợ và chồng phản ảnh ảnh hưởng của vấn đề chung mà nhân loại ngày hôm nay đang đối đầu: kinh tế bất ổn, sự vô dụng mà nhiều người cảm thấy đối với những vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế của thời đại chúng ta, sự thiếu vững chắc được gây nên bỡi những thay đổi sâu xa về giá trị và đạo đức luân lý, sự chia rẽ của xã hội thành những đơn vị nhỏ mà mỗi đơn vị lo đi tìm lợi ích cho riêng mình, sự nghi ngờ nhau được gây nên bi sự tranh giành và đọ sức nhau, và trên hết là sự tranh đấu cho sự ưu thế của nam và nữ. Đây là những yếu tố mang lại chiều sâu và ý nghĩa cho những tranh luận vô nghĩa và không quan trọng. Biết những yếu tố nầy giúp được chút ít trong việc khuất phục những tình thế khó khăn của chồng và vợ. Để hữu ích, kiến thức phải được áp dụng. Không may, chỉ lời khuyên về kỷ thuật thì có giá trị giới hạn vì thái độ cá nhân là động lực quan trọng nhất đàng sau bối cảnh. Hiểu về chính mình và người bạn cũng như sự hiểu rõ những bộ măt liên quan đến bản tính con người sẽ mang lại một sự giúp ích hữu hiệu mà con người có thể tìm thấy trong công việc phải đối phó với cuộc sống và với việc đã kết hôn.  

BẤT TƯƠNG XỨNG VỀ TÍNH DỤC

Trong khi thảo luận đâu là những trở ngại cho hạnh phúc hôn nhân, chúng ta hãy mở mắt xem những nhu cầu và những xung khắc của con người nằm sâu xa bên dưới. Sự tương hợp về tính dục được xem là một trong những căn bản của việc hiểu biết về hôn nhân, vì hôn nhân là luật thiết định hợp lý để cung cấp cho sự thỏa mãn về tính dục. Sự thỏa mãn hỗ tương về tính dục là luật trừ hơn là qui luật trong những hôn nhân của thời đại chúng ta. Vì sự rất thông thường của việc không thỏa mãn về tính dục trở nên quá rõ ràng nên nhiều sách được viết để giúp thăng tiến về liên hệ tình dục trong hôn nhân. Nhiều cuốn đã được viết về những khó khăn trong việc hài hòa tính dục giữa nam và nữ, và làm thế nào để khắc phục được những trở ngại đó. Nhiều người đã khát vọng loại văn chương nầy, hy vọng nhận được câu trả lời cho những khát vọng mong thỏa mãn được những nhu cầu cần thiết đó. Nhiều cặp vợ chồng có thể đã tìm được một vài thoải mái từ những cuốn sách đó. Nhưng tôi vẫn còn lấy làm lạ: có phải cái ký kết mới của họ về hạnh phúc hôn nhân đến từ lời khuyên về kỹ thuật hay từ thái độ mới của một cặp vợ chồng đã được nối kết lại bởi sự tò mò và mạo hiểm muốn chia xẻ cùng một trách nhiệm chung. Có thể là sự chia xẻ nầy sẽ mang lại một sự hợp nhất sâu xa hơn, lâu dài hơn về mục đích và lợi ích hơn là sự hiệp nhất được thiết lập bỡi đám cưới. Nhưng nếu chỉ có k thuật mà thôi không thể có hiệu quả lâu dài cũng không thể cứu được một sự hợp nhất ngày càng xuống cấp. 

Câu bất tương xứng trong tính dục đã được dùng và thường bị lạm dụng như một cớ để che dấu sự khước từ. Mỗi cá nhân bị lôi cuốn về tính dục bởi một vài nét nào đó của một người khác phái hơn là bi những người khác. Những kinh nghiệm trước đây và những khuynh hướng cá nhân giúp họ chọn lựa những sở thích của họ. Khi một người cảm thấy mình bị lôi cuốn bi một loại người nào đó, sự thích thú như thế có thể nói là quan trọng trong suốt tiến trình ve vãn. Sau khi đám cưới, những yếu tố khác điều khiển liên hệ phái tính. Có loại cử chỉ ái ân một thời được yêu chuộng nhất có thể không bao lâu lại mất đi sự hấp dẫn. Chúng ta đã lưu ý đến một trường hợp trong đó người chồng lại tái khám phá ra người vợ có một sức hấp dẫn về tính dục cho dẫu ông đã bị thuyết phục rằng nàng có thể không bao giờ kích thích ông được nữa. Thiếu sự thích thú về tính dục nói chung, thiếu sự kích thích, sự khác biệt về những nhu cầu tính dục, không có khả năng hay lạnh cảm, những cái đó không là nguyên nhân của sự bất tương xứng về tính dục nhưng là kết quả của những xung khắc cá nhân. Chúng phản ảnh những thái độ đối nghịch nhau giữa vợ và chồng, những thái độ nầy ảnh hưởng đến những hành vi liên quan đến tính dục. Không có một chỉ dạy về k thuật nào toàn hảo, mà chỉ do hai người nếu yêu nhau chân thành có thể khám phá ra về vấn đề nầy và có thể giữ được mãi sự lôi cuốn hấp dẫn nhau về chuyện tình ái. 

Những nhà theo chủ nghĩa vật chất đánh giá quá cao sự quan trọng của quy luật tình ái và sự thỏa mãn tròn đầy của nó. Họ tin vào sự an bài từ trước về tính dục và tin vào sự tận hưởng triệt để nguồn khát vọng đó. Nhưng chúng ta hãy xem những kinh nghiệm xảy ra. Rất thường, đêm tân hôn là đêm thất vọng nhất và đánh dấu sự khởi đầu của sự bất hạnh và thực tại hôn nhân. Cô dâu và chú rể không thể tìm thấy sự thỏa mãn hỗ tương và sau đó cũng không học hiểu biết, cảm thông nhau hơn. Quy luật tình ái của họ thì quá khác biệt. Họ cảm thấy mình bị đốt cháy bi đam mê, lôi cuốn vào mê hồn trận, và chỉ sau một lúc thì ngọn lửa tàn đi. Khát vọng của họ được tha mãn. Họ đi tìm kích thích mới, mạo hiểm mới, kinh nghiệm mới. Ngay trong những trường hợp bình thường hơn, nhiều người tin rằng sự kích thích không thể làm sống lại thói quen hằng ngày, rằng kinh nghiệm mới thì cần để làm nóng bỏng dục vọng, và rằng sự cũ kỹ không có gì mới mẻ, sẽ làm chết khoái cảm. Hàng triệu người tin vào sự tương hợp bẩm sinh về tính dục và sự thụ hưởng tự nhiên về dục vọng, vì kinh nghiệm của họ xem ra phù hợp với niềm tin như thế và không thể nhìn sâu xa hơn vào những cảm nghiệm đó.

SỰ THỎA MÃN ĐÒI HỎI SỰ THÍCH ỨNG LẪN NHAU 

Khi hai người đi vào liên hệ tình ái, mỗi người mang vào cá tính của mình, một số những kinh nghiệm quá khứ, và dĩ nhiên toàn thể con người họ. Phải nói là một điều quá lạ lùng nếu họ phù hợp với nhau. Chuyện ân ái là một nghệ thuật, mà nghệ thuật thì cần phải được phát triển bỡi sự huấn luyện như mọi nghệ thuật khác. Càng là những họa sĩ khá, họ càng phải phù hợp nhau hơn. Nhưng nếu họ không biết nghệ thuật chút nào, và ngay dầu họ khác biệt trong thái độ lúc đầu, họ cũng có thể học hỏi với nhau. Mỗi liên hệ tình ái là một tiến trình thích nghi lẫn nhau. 

Chúng ta có thể tường thuật một vài sự khác biệt mà hai người gặp thấy nơi nhau. Mỗi người có thể là chủ động hoặc thụ động, phục tùng hay chỉ huy, hướng dẫn hay tòng theo. Họ có thể là hung hăng hay nhẫn nại nhịn nhục, nhạy cảm hay man rợ, ích kỷ hay quan tâm. Tất cả những bản tính nầy được biểu lộ trong khi làm chuyện tình ái. Trong một ít tập quán, có thể có một sự đồng thuận tự nhiên, một sự hài hòa hỗ tương. Chúng ta có thể mong đợi điều đó trong mọi thói quen và mọi hành động cá nhân không? Họ biết về nhau quá ít trước khi họ muốn hòa tan trong nhau và vì thế họ thất vọng quá dễ dàng. Hơn nữa, họ thấy nơi người bạn của mình toàn thể quá khứ cá nhân của họ. Điều mà họ đã trải qua, đã thích, đã mơ chợt xuất hiện trong lúc họ cùng nhau nên một. Hàng trăm người gặp nhau trong một đôi vợ chồng.
Nhưng họ không nhận thấy những tham dự viên của chính mình và họ thất vọng nếu đám đông không phù hợp với họ. Tất cả những tình cảm được cho và nhận, những cảm xúc đối với những người mình yêu, những hình ảnh của bố mẹ, anh chị, bồ bịch, tất cả đều tập trung nơi một người mà chúng ta thấy yêu. Chúng ta không có một con người thật, nhưng là biểu tượng của cái chúng ta đã yêu và cái chúng ta đã mong đợi. Nếu môi trường thuận lợi và người bạn có thể sống phù hợp với mọi yêu cầu, chúng ta sớm muộn rồi cũng tỉnh giấc mộng. Bấy giờ chúng ta phải học nhận ra người bạn chúng ta và yêu người bạn đó. Nhưng nếu chúng ta yêu họ vì cái mà nó biểu tượng trong đầu chúng ta, chúng ta sẽ chán nản và rút lui. Tình yêu chúng ta có thể kéo dài nếu kinh nghiệm mới thì mạnh đủ để chinh phục quá khứ và mở một chương mới về những đòi hỏi và mong đợi của chúng ta. Nếu những người bạn không có những thích ứng hỗ tương cần thiết, sự thất vọng về liên hệ tình ái và sự bất hòa gia tăng đó là kết quả đương nhiên. 

Anh chị Nguyễn đến gặp bác sĩ tâm lý liên quan đến vấn đề không thỏa mãn trong việc chăn gối. Họ tận hiến cho nhau. Tinh thần cộng tác giúp họ hiểu nhau và đồng ý trong việc giải quyết những vấn đề trong cuộc sống chung của họ. Nhưng về chuyện chăn gối họ hoàn toàn hững hờ với nhau và bây giờ đi đến chỗ họ không còn thích nhau chút nào nữa. Yếu tố quan trọng trong sự thất vọng của họ là sự khác biệt trong việc huấn luyện cảm xúc. Chị Nguyễn là con một của một người mẹ rất tình cảm và đã lớn lên trong bầu khí dịu dàng và tận hiến được biểu lộ một cách cởi mở. Tuy nhiên, anh Nguyễn đã xa gia đình khi mới 13 tuổi, đã tự mình sinh sống từ lúc đó, và đã trải qua tuổi trẻ nay đây mai đó. Cuối cùng anh muốn định cư, có nhà, và có gia đình. Chị Nguyễn gây cho anh ta một ấn tượng với sự tận hiến của một người mẹ và anh ta đã yêu cô. Cô nàng cũng yêu chàng vì anh chàng là một con người cứng rắn hứa hẹn cho nàng một sự bảo vệ và ổn định cuộc sống. Cả hai đều có lý theo cái nhìn mong đợi của họ, nhưng vẫn còn thiếu một điều gì đó. Cô ta không thể thỏa mãn trong việc vuốt ve mà không gợi lên một sự ham muốn tình dục nơi người chồng. Anh ta từ chối đòi hỏi của nàng chỉ muốn gần chàng, muốn được hôn và vuốt ve, và nàng giận dữ quyền lực quá đáng của chàng đối với nàng. Suốt bao nhiêu năm, sự giận dữ lẫn nhau ngày càng lớn mạnh cho đến nỗi người chồng không còn khả năng ấy nữa và hoàn toàn mất đi sự ham muốn tình dục vì anh cảm thấy sự phục tùng của nàng đầy đau khổ và miễn cưỡng. Cả hai đã không học yêu cái mà người kia thích. Mỗi người cảm thấy bị lừa dối trong những đòi hỏi chính đáng của riêng mình. Cả hai muốn nhận sự thỏa mãn mà không muốn cho. 

THÁI ĐỘ QUAN TRỌNG HƠN KỶ THUẬT 

Sự phấn đấu để được thỏa mãn là chuyện bình thường và là nguồn của sự đụng độ và chán nản. Ít người nhận ra sự thỏa mãn trong việc tình ái nằm trong sự biết thỏa mãn. Không phải họ không có ý hướng thỏa mãn nhưng họ không sống cho nhau và sống trong nhau. Vấn đề ở đây là họ chỉ thấy cảm giác riêng họ, khả năng riêng họ, cái tôi của họ bị tổn thương hoặc bị khước từ. Họ không ra khỏi chính họ. Tình yêu thỏa mãn có nghĩa là cảm nghiệm được cái cảm giác của người mình yêu. Bao lâu người ta có cảm giác đòi hỏi, đầu óc họ ra khỏi người mình yêu và chỉ tập trung chung quanh cái tôi của họ. 
Cũng vậy, nếu cảm giác về bổn phận hoặc về tai họa đối với danh tiếng của họ phát triển thì trường hợp tương tự cũng xảy ra như vậy. Dẫu người ta xem ra thích thú trong việc làm tròn bổn phận của họ, cảm giác về bổn phận thì không tương hợp với việc cảm được cách tròn đầy cái cảm giác của người bạn mình. Bất cứ lợi ích nào ngoài sự vui hưởng và thỏa mãn với nhau đều làm phân tán và giết chết cảm xúc. Sự lạnh cảm và không khả năng là kết quả của việc giết chết xúc cảm đó. Đó là những phản ứng tự nhiên về thần kinh và che giấu những ý hướng thật như bất cứ một triệu chứng thần kinh nào. Trong lúc người ta quan tâm đến sự thỏa mãn, người ta thường chú trọng hơn đến tiếng tăm hoặc thất bại và những vấn đề bảo vệ khác. Sự giận dữ đối với vai trò phụ nữ của họ làm nhiều phụ nữ do dự đóng vai trò phụ nữ trong việc ân ái và sự giận dữ nầy tạo nên sự lạnh cảm. Thường thì phụ nữ không ý thức rằng họ lạnh cảm vì họ yêu chồng và cảm thấy bị kích thích về chuyện tình ái, nhưng họ thiếu mất cái cảm xúc tột đỉnh. Những người khác mong đợi cách luống công một sự kích thích nào đó vì họ không nhận thấy rằng chính họ làm cản trở những xúc cảm họ đi đến chỗ tột đỉnh. Sự bất khả của nam giới cũng giống như vậy. Sự bất khả có nghĩa là: hoặc là giữ khoảng cách hoặc là phản ảnh một sự nghi ngờ sâu xa: họ có là một người đàn ông thật hay không? Thiếu sự kích thích tính dục hoặc không có chiều sâu của cảm xúc luôn có nghĩa là co rút và muốn giữ khoảng cách thường là do bỡi sự không hài lòng, không thỏa mãn trong cuộc sống. 

Thật đáng để xem sự khác biệt thể lý về nhịp điệu giữa nam và nữ trong việc ân ái là một điều cần thiết và được bàn cãi rất nhiều trong thời gian gần đây. Vấn đề là cả nam và nữ trong mọi trường hợp phải thích ứng với nhau vì không phải hai người có cùng một sự huấn luyện. Cái nguy hiểm trong tương quan tính dục là chiều hướng đòi hỏi trên nhau. Chàng và nàng nên hành động và đáp trả cách khác nhau tùy theo tình huống. Chúng ta giáo dục cho nhau nhưng không bao giờ bằng đòi hỏi. Đòi hỏi chỉ làm giận dữ và tạo nên sự bất đồng cũng như sự chống đối. 

Nếu sự thỏa mãn hỗ tương không đạt được cách tự động, người ta phải bắt đầu tiến trình thích nghi bởi chính họ. Hãy nhớ rằng các bà dễ thất vọng hơn các ông. Vấn đề là: phản ứng chậm trễ của họ là do thể lý hay là do thái độ do dự chung của họ trong việc liên hệ tình ái. Lối huấn luyện thụ động khiến các bà có khuynh hướng đòi hỏi và dễ cảm thấy chán nản hơn nên mong đợi một sự giải quyết từ phía đối phương. Cái vòng lẩn quẩn ác độc đó đưa đến sự giận dữ và rối loạn sâu xa trong liên hệ tình ái. 

Thật vậy, nam và nữ vẫn có cái gì giống nhau hơn là các nhà khoa học theo chủ nghĩa vật chất muốn tin. Hai cá nhân hòa hợp trong một sự chấp nhận hỗ tương hoàn toàn có một khả năng đồng nhất đáng kể. Bấy giờ, bất cứ điều gì xảy ra nơi người nầy cũng được chia xẻ bỡi người khác. Đây là một trong những phép lạ của con người: làm cách nào con người có khả năng chuyển những cảm giác và ngay cả những tư tưởng cho nhau ngang qua hàng rào ngăn trở của thân xác họ. Bao lâu họ không có gì phải vương vấn trong đầu óc, bao lâu họ vẫn còn chấp nhận nhau trong sự thoải mái hoàn toàn, bấy giờ mỗi động lực xúc cảm của một người đều ảnh hưởng cả hai như nhau. Dưới những điều kiện như thế, sự hồi hộp và thỏa mãn xảy ra cùng một lúc. Mức độ của sự thích ứng hỗ tương thì vô giới hạn. Nó tùy thuộc vào ý muốn chấp nhận nhau mà không có sự đòi hỏi và giận dữ, không có sự phàn nàn và khó chịu. Mọi sự đều tốt bao lâu cả hai đều thích thú. Nếu một bên mà sự thỏa mãn về tình dục của họ là sự lạm dụng phía bên kia thì chẳng khác gì một sự hiếp dâm. Tình yêu là một bổn phận hỗ tương. Tình ái là một sự hiểu biết lẫn nhau. 

TÌNH YÊU CẦN SỰ DÀI LÂU 

Người chồng cũng như người vợ một khi ý thức về vấn đề nầy sẽ cố gắng kích thích tình cảm, cố gắng có được sự đáp trả thay vì quan tâm đến quyền lợi riêng mình. Rất nhiều người không bao lâu sau khi kết hôn quên đi khả năng quyến rủ và lôi cuốn của họ. Họ tin rằng giấy chứng nhận hôn phối cho phép họ có quyền hưởng thụ. Và khi những mong đợi của họ không đạt được, họ đòi hỏi nhiều hơn thay vì tìm cách để thu hút hơn. Nhiều bà đã phải khổ sở để làm cho mình có sức hấp dẫn hơn khi họ đi ra ngoài hoặc đi thăm bạn bè nhưng lại quên chăm sóc cho sự thân mật trong đời sống gia đình. Họ đón nhận tình yêu của người chồng được trao ban thay vì chiếm được sự ngưỡng mộ và tình cảm mới mẻ của ông. Một khi đã kết hôn rồi, họ không còn lo lắng: họ có còn hấp dẫn để khêu gợi được cảm giác cũng như cảm xúc của người bạn mình nữa không, và họ quên mất phương cách tế nhị mà họ đã dùng một cách thành công để tóm gọn được chàng. Họ có thể xem những cố gắng như thế là nhục mạ. Không, chúng phải được yêu quí như chúng đáng yêu. Không có người đàn bà nào quá trẻ và quá đẹp đến nỗi không cần những điều đó, và cũng không có ai già và xấu quá đến nỗi không thể tìm những phương cách khéo léo để giữ cảm xúc của ông chồng luôn sống động.

Nhiều người đàn ông cũng cư xử trong cách thế đó. Sau khi kết hôn hoặc ít nhất sau những ngày trăng mật, họ quên mất đi sự ngọt ngào là cái đã mang đến sự phấn khởi. Ít ra trong những dịp sinh hoạt có tính cách xã hội, họ nên tỏ cho thấy sự tận hiến của mình trước mặt những người khác. Họ không nhận ra rằng người đàn bà đòi hỏi những dấu hiệu của tình yêu và không thể lấy gì biểu lộ mình yêu nếu điều đó không được lập đi lập lại. Sau đám cưới, các ông thường không tăng không giảm trong việc tìm cách thuyết phục một người đàn bà. Xem ra các ông không được huấn luyện để làm điều đó. Họ xem các bà như bị bó buộc vào bổn phận hôn nhân và đòi hỏi sự thõa mãn trong việc tình ái như là một sự đương nhiên. Nhiều người trong họ nghĩ rằng chỉ có sự ham muốn của các ông mới là quan trọng và các bà phải chấp nhận điều đó mỗi khi họ muốn. Họ tin rằng các bà nên luôn sẵn sàng nhưng không bao giờ nên đòi hỏi. 

Niềm tin vào sự ưu thế của phái nam của họ cổ vũ cho quan niệm sai lầm nầy và thường thì rất khó thay đổi. Họ không học biết rằng sự đáp trả đối với vấn đề làm chuyện tình ái là bổn phận của cả hai, và bất cứ một bất hòa nào trong sự liên hệ tình ái phải được xem là một vấn đề chung và chỉ có thể giải quyết nếu cả hai bên cùng nhau cố gắng cho bổn phận chung đó. 

MỌI TRỤC TRẶC LÀ BỔN PHẬN CHUNG

Thật là hữu ích cho sự hạnh phúc hôn nhân nếu nhận biết rằng bất cứ một trục trặc nào trong hôn nhân đều là bổn phận chung cần đến sự giúp đỡ và cùng nhau giải quyết. Tình trạng nan giải có thể xảy đến không hẳn làm nguy hiểm sự hợp nhất, trái lại thường làm họ gắn chặt nhau hơn. Mọi sự chỉ tùy thuộc khả năng hai người gắn bó vào nhau khi phải đối đầu với công việc khó khăn. Có cùng quan điểm và cùng nhau thiết lập những giá trị chung sẽ làm tăng thêm sức kháng cự đối với bất cứ một chiều hướng đối nghịch nào. Một niềm tin tôn giáo mạnh mẽ, một quan niệm triết lý về nhân sinh vững vàng được chia xẻ bỡi cả hai, mang lại cho hôn nhân một sự vững bền. Điều đó không có nghĩa là sự khác biệt tôn giáo và niềm tin xung khắc là một bệnh hoạn. Những khác biệt như thế đòi hỏi một sự hiểu biết rộng rãi, sự cảm thông, và sức chịu đựng được phát triển một cách tốt đẹp.

CẢ BÊN VỢ LẪN BÊN CHỒNG ĐỀU LÀ BỔN PHẬN CHUNG 

Một trong những đe dọa nguy hiểm và gần như phổ thông đối với sự hài hòa hôn nhân là sự phân biệt bên chồng, bên vợ. Không phải bất cứ một sự nan giải nào phát xuất từ đây đều khó giải quyết hơn những cái khác. Nhưng trong trường hợp nầy, sự cám dỗ thì rất mạnh để đổ lỗi cho người bạn mình và gia đình họ cho những xung đột xảy ra. Mẹ chồng và gia đình thì thường trục trặc hơn. Trong lúc bà mẹ vợ rất hân hoan chào đón chàng rể vào trong gia đình, bà mẹ chồng thường không xem cô gái nào tốt đủ để họ quí trọng. Di nhiên, có nhiều luật trừ cho điều lệ nầy, nhưng kinh nghiệm cho thấy có chút lợi điểm thiên về phía mẹ vợ. Chính sự phân biệt sẽ dẫn đến sự đụng độ và chán nản ngoại trừ cả hai bên cùng quyết định xem mọi trục trặc như là một bổn phận chung. Nếu không, người nầy đổ lỗi cho người kia là phe phái và không hiểu gì cả.

Một khi sự chống đối đã được thiết lập, sự giải quyết thõa đáng bị cản trở. Việc cố gắng để thuyết phục đối phương là sai, thì điều đó không giúp ích gì và cũng không làm hiểu nhau hơn. Cô nàng dễ dàng quên mất đi sự khó xử của người chồng bỡi sự giằng co giữa bổn phận của một người chồng và bổn phận của một người con phải bảo vệ mẹ mình trước những tố cáo của vợ. Nhận ra sự xung khắc của người mẹ đáng kính và người vợ đáng yêu, người đàn bà thông minh sẽ giúp chồng giải quyết vấn đề bằng cách không làm chồng giận bỡi những lời phàn nàn của nàng. Không khó để tìm ra một câu trả lời hữu hiệu cho một tình thế mà nhiều người cho là không giải quyết được, nếu chúng ta biết xử dụng óc tưởng tượng chúng ta và sự thông minh của chúng ta trong chiều hướng đúng. Những khác biệt quá nhiều về lợi ích giữa những phần tử khác nhau của gia đình có thể không thể nào xóa hết được ít nhất là trong lúc nầy, nhưng sự hài hòa trong hôn nhân không nhất thiết đau khổ. 

Không phải mọi xung đột bên chồng cũng như bên vợ có thể được giải quyết một cách dễ dàng. Cần phải chịu đựng và kiên nhẫn hơn đối với những người xem ra không muốn chấp nhận sự hiện diện của nàng trong gia đình. Nhưng bao lâu nàng không để bất cứ ai có thể tách rời nàng ra khỏi chàng, bao lâu nàng còn quyết tâm yêu chàng, khích lệ chàng, nâng đỡ chàng, và giúp chàng thắng vượt mọi xung khắc trong chàng, chắc chắn không gì có thể tiêu hủy sợi giây liên hệ của họ. Sau cùng, nàng sẽ thắng được bà mẹ chồng là người cuối cùng cũng phải nhận thấy rằng bà phải chấp nhận đứa con dâu của bà vì không cách nào lấy nàng ra khỏi trái tim của đứa con mình. 

Lối giải quyết nầy xem ra không thể ở lúc đầu, nhưng rồi biến thành có thể bỡi những người xem ra biết tế nhị và có sự quyết tâm, là những người tuy đau khổ nhưng vẫn biết cảm thông đối với những khổ đau của những con người muốn mạ lỵ và làm tổn thương mình. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp có thể không thành công, nàng có thể thuyết phục chồng rằng quả thật không còn cách nào để giúp bà mẹ cho dẫu chúng mình có cố gắng tìm hết mọi cách tốt đẹp nhất. Bấy giờ, chàng sẽ nhận thấy nàng như một người bạn chân thành và tuyệt vời, chàng sẽ tin tưởng vào nàng và lấy sức mạnh qua nàng, chàng có thể tiến đến việc thiết lập một sự độc lập khỏi bà mẹ, một sự độc lập mà những người đàn ông may mắn có được dưới những trường hợp ít bi đát và ít đau khổ. Trong mọi trường hợp, cách cư xử thích hợp của người vợ, người không nhường cũng không chống, nhưng biết cảm thông và giúp đỡ, có thể khôi phục được sự quân bình giữa mẹ và con, và như thế sẽ không còn làm hôn nhân của họ nguy hiểm nữa. 

Dĩ nhiên, tình trạng như thế nầy cũng có thể xảy ra đối với những người phía bên vợ như vậy. Có nhiều cặp hôn nhân và nhất là đối với những cặp mà hai gia đinh không được “môn đăng hộ đối” hay hoàn cảnh kinh tế gia đình cách biệt quá xa, chàng có thể bị khước từ hay bị coi thường bỡi những người bên vợ. Nếu chàng tin rằng chàng có thể đòi hỏi sự phục tùng của nàng và nếu chàng xem đó như là một bổn phận của một cô gái đã lấy chồng, chàng sẽ tỏ ra không cần sự cảm thông đối với những qui luật nhân bản dành cho nàng. Chàng có thể ép buộc nàng phục tùng, nhưng rồi chàng sẽ gặt sự thù ghét mà chàng đã gieo. Những yêu sách, đòi hỏi như một phương cách để giải quyết những khó khăn thì chẳng có ích gì nếu người chồng nghĩ họ có quyền làm như vậy. Thật không may, bản tính của đàn ông thường không sẵn sàng để mang lại cho những bà vợ sự khích lệ và sự dễ dàng trong những trường hợp khó khăn, cách riêng trong những lúc có sự xung đột. Dường như cái quan niệm dành cho phái nam một sự ưu thế đã khiến cho các ông mất sự cảm thông và thiện cảm. Sự nhạy cảm đối với thể diện của họ rất dễ dàng được khơi dậy và xem ra vì thế giá của họ, họ phải đòi hỏi và cưỡng bách sự phục tùng đó. Dầu sự trục trặc xem ra là do bên vợ, thật ra nó đã được tạo ra bỡi cách cư xử thống trị và hay đòi hỏi của người chồng. 

NHỮNG KHÓ KHĂN VỀ KINH TẾ

Cần phân biệt sự xáo trộn thật và cái có vẻ như là xáo trộn trong việc phân tích các nguồn gốc khác của việc bất ổn trong hôn nhân. Những khó khăn về kinh tế thường bị đổ tội cho sự hủy hoại mối bất hòa trong hôn nhân. Khi sự nghèo đi vào cữa trước, tình yêu đi ra cữa sau. Câu ấy nghe thật xuôi tai nhưng có thật như vậy không? Tôi đã thấy nhiều hôn nhân trong đó sự căng thẳng về kinh tế ngăn ngừa được sự đổ vỡ. Không phải vì họ không thể cung cấp những chi phí, cũng không phải vì có khả năng kinh tế mà nâng số ly dị lên cao. Cái khó nghèo có thể mang hai người gần lại hơn cũng như dễ làm cho sợi giây hôn nhân của họ tan vỡ hơn. Cuộc sống khó khăn đã kết hợp một số hôn nhân nhưng cũng làm tan vỡ một số khác. Bất cứ một sự không may mắn nào cũng là một thử thách của sự can đảm và sự trung thành của cả hai. Đó là một thử thách về nền tảng mà trên đó hôn nhân đã được xây dựng. Nếu người vợ lấy chồng vì lý do bảo đảm kinh tế, dĩ nhiên sự mất thu nhập cũng làm mất nền tảng mà trên đó hôn nhân được xây cất. Trái lại, nếu họ có cảm giác thuộc về, sự khó khăn sẽ làm mạnh thêm cảm giác đó. Dưới những điều kiện khó khăn, nhiều đụng độ nho nhỏ thường có hại cho sự cảm thông hỗ tương sẽ biến mất. Tai họa thật không có chỗ cho việc quan tâm đến thể diện cá nhân. Mọi ước muốn cho cuộc sống được tốt đẹp hơn, hay mọi sợ hãi mang nhiều mặc cảm đều mất ý nghĩa khi sự sống còn bị đe dọa về mặt thể lý, kinh tế, hay xã hội. Các bà trước đây quan tâm về giải trí, dáng vẻ bên ngoài, và sự giàu sang lại trở thành những người bạn đồng hành thật với chồng mình, và họ sẵn sàng hy sinh sự thoải mái để giúp đỡ chồng, ngay cả dấn thân đi làm để cung ứng sự nâng đỡ về kinh tế. Nhiều cặp dưới những trường hợp như thế đã khám phá ra những tính chất và những đặc nét đáng yêu trong nhau mà họ không bao giờ nhìn thấy trước đây.

Tuy nhiên, cũng không thể chối từ những khủng hoảng về kinh tế thường là nền tảng ngay tức khắc cho sự sụp đổ hôn nhân. Nhưng kinh nghiệm dạy cho chúng ta: hãy nhìn xa hơn những xung đột có tính cách tức thời để đi tìm những lý do đằng sau đó. Như chúng ta đã nói trước đây, có thể việc thiết lập nền tảng của hôn nhân như thế không đủ để chịu đựng bất cứ một sự căng thẳng nào, hoặc đã bị xoi mòn bỡi những xung đột trước đến nỗi chỉ một chút nặng nhọc thêm vào cũng đủ làm tan vỡ tất cả. Chúng ta phải xem xét đằng sau bất cứ sự sụp đổ hôn nhân nào, bấy giờ chúng ta sẽ khám phá ra và rất có thể đây là nguyên nhân sâu xa: quá nhấn mạnh đến thể diện, danh tiếng cá nhân. Bằng cách nào khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến thể diện cá nhân? Để hiểu vấn đề nầy, chúng ta phải nhận ra nguồn gốc sâu xa của nhiều bất hòa trong hôn nhân mà xem ra có nền tảng bắt nguồn từ những khủng hoảng về kinh tế.

NGƯỜI ĐÀN ÔNG NHƯ MỘT NGƯỜI CUNG CẤP

Quan niệm hiện hành của các ông cũng như các bà đối với vấn đề kinh tế có một màu sắc đặc biệt. Nhiều bà xem giá trị của họ được đánh giá trong từ ngữ của đồng đô la mà một người đàn ông cần phải chi tiêu cho họ với tư cách là một người vợ hay một người bồ. Chính vì thế, sự khủng hoảng về kinh tế của người chồng được coi như một sự tổn thương không thể chấp nhận được về phương diện xã hội. Bất cứ một người đàn ông nào dám đe dọa tình trạng xã hội của nàng phải chịu nhiều rắc rối bỡi sự giận dữ và thất sủng của nàng. Trên căn bản nầy, những cuộc cãi cọ và tố cáo lẫn nhau bắt đầu. Mặt khác, đàn ông thường coi vị thế của họ liên kết với tiền họ làm ra. Quan niệm rất thông thường là: bất cứ người đàn ông nào không kiếm ra tiền thì được xem là thất bại. Không có công ăn việc làm đối với đàn ông khó chấp nhận hơn là đối với các bà. Mặc cảm thất nghiệp bỡi thiếu khả năng của người đàn ông mất việc làm tăng sự căng thẳng trong việc chiến đấu cho sự bảo vệ thể diện cá nhân trong gia đình và làm rối loạn sự quân bình trong hôn nhân.
Nếu người chồng không thể nâng đỡ gia đình một cách thích hợp, cần phải có can đảm nhiều cũng như cần có một cảm giác sâu xa về phẩm giá đối với cả hai bên để giữ được sự hài hòa trong hôn nhân. Người vợ có khuynh hướng nhìn khuyết điểm của chồng như là một hành động xúc phạm cá nhân, thường cắt nghĩa sự không làm ra tiền là một sự sao nhãng bổn phận đối với vợ và gia đình. Người chồng về phía mình, cảm thấy sự bất lực của mình một cách đau đớn ngay dù ông muốn cố che giấu sự tủi nhục. Nhưng những hành động của ông cho thấy rõ ràng những cố gắng vô ích để đền bù cho sự thất bại bị lên án của ông. Ông có thể phản đối một cách tích cực hay thụ động bằng cách ở trên giường và chối từ bất cứ loại đóng góp nào về phía bên ông; hoặc ông có thể đóng vai bạo chúa đòi hỏi và ra lệnh những phần tử khác trong gia đình. Bà vợ thường không hiểu tại sao ông lại cư xử như vậy, và sự giận dữ của nàng tăng lên khi ông ngày càng ít muốn giúp việc nhà. Nàng nghĩ rằng chàng có bổn phận gánh vác những trách nhiệm trong nhà nếu chàng không đi làm. Nàng không nhận ra rằng quan niệm của chàng về công việc nhà được xem như là của các bà, và vì thế mặc cảm đó càng làm cho chàng cảm thấy xấu hổ. Sự chán nản đó càng đẩy chàng chìm sâu hơn trong sự chống đối và thất vọng.

Nếu các ông được huấn luyện xem công việc nhà không là của các bà, và các bà xem việc nuôi sống gia đình không hoàn toàn là của các ông, bấy giờ sự thất nghiệp của ông chồng khó tạo nên sự khủng hoảng. Đối với những người có nghề nghiệp chuyên môn thì cuộc sống lại là một cái gì khác nữa, vì ở đó vai trò quan trọng của người chồng như là một nghệ sĩ, văn sĩ, ca sĩ, luật sư, nghệ thuật gia, hay khoa học gia ít tùy thuộc trên số tiền họ kiếm được. Trong những lãnh vực như thế, một người có thể có địa vị chuyên môn nhưng vẫn nghèo, và người vợ có thể hảnh diện về chồng ngay cả dẫu nàng nâng đỡ cuộc sống của chàng. Nhưng nếu các bà thuộc nhóm người có quan niệm rằng chỉ những người đàn ông là có bổn phận chính trong việc nuôi sống gia đình, chắc chắn không tránh khỏi việc coi thường những người đàn ông thất nghiệp.
Những thay đổi trong quan niệm về người đàn ông như là một nguồn cung cấp duy nhất dẫn đến những khó khăn mới trong chiều hướng khác. Nhiều ông giận dữ vì các bà ước muốn đi làm bên ngoài để kiếm tiền. Họ coi điều đó là một sỉ nhục nếu để bà vợ đi làm. Thật ra, đó chỉ là một sự tranh chấp cho quyền tối thượng và thể diện của họ. Khắc phục một trở ngại như thế thì không dễ đối với một người đàn bà muốn đóng góp một chút gì cho xã hội và cho gia đình. Chiến tranh hoặc nhường nhịn cả hai đều không mang lại lợi ích gì. Chiến tranh có thể dẫn đến sự sụp đổ của những ràng buộc hôn nhân. Ngay cả khi nàng thắng, chàng sẽ tiếp tục hận thù sự thành công của nàng, và trong vài trường hợp chàng có thể trở nên thất vọng trong việc cạnh tranh với nàng đến nỗi sự thích nghi cuộc sống của chàng cũng bị tổn thương. Nhưng nếu đầu hàng, sự đầu hàng của nàng có thể đưa đến một sự giận dữ và sẽ đưa nàng đến một đời sống trống rỗng và bất hạnh, hoặc đưa đến một sự độc lập xem ra vô vị không cần thiết.

Cuộc đụng độ giữa hai người phối ngẫu không làm cản trở một sự đồng ý có thể đạt được trong thế quân bình hoàn toàn mãn nguyện. Nhiều bà có khả năng và ước muốn đi làm, đã tự nguyện tước bỏ điều đó vì họ nhận thấy thật là phiền toái và rắc rối biết bao cho sự hạnh phúc của hôn nhân họ nếu họ ra đi làm. Tuy nhiên, một sự quyết định như thế không thể được xem như là đầu hàng. Điều đó được làm một cách hữu ý trong sự ý thức hoàn toàn về những lợi ích đạt được. Nhưng nếu người đàn bà thật lòng thích thú một công việc nào đó và nhất định làm, sự nhân nhượng trước những đe dọa hoặc khủng bố sẽ không giải quyết vấn đề. Nàng nên tìm cách giữ hôn nhân của nàng phù hợp với sự phát triển một nghề nghiệp. Điều nầy đòi hỏi khả năng thuyết phục được sự chấp nhận của người chồng. Cãi cọ và nước mắt, đe dọa và tố cáo chỉ gây hận thù mà thôi. Đàn bà can đảm dấn thân vào một nghề nghiệp có thể khéo léo và mạnh đủ để thuyết phục người chồng rằng chàng không mất gì cả ngay cả ưu thế của người đàn ông, nếu nàng tìm được lãnh vực riêng của nàng để hoạt động.

Không kể sự xung khắc được tạo nên bởi sự không cung cấp của người chồng hay bi ước muốn trở nên người cung cấp duy nhất, những nguyên tắc trên đây có giá trị và cần phải được giữ lấy nếu không muốn tai họa xảy đến. Trước nhất, người vợ phải nhận ra khủng hoảng của người chồng và giúp chàng giải quyết vấn đề. Chàng cần sự khích lệ ngay cả khi chàng cố gắng đóng vai bạo chúa. Người chồng ngăn cản người vợ không cho đi làm cho thấy sự thất vọng của chàng cũng như cho thấy rằng chàng lo sợ sẽ không thể giữ được thế thượng tôn. Cho chàng thấy chàng sai biết bao trong việc đòi hỏi quá mức của chàng là giúp chàng nhận thức được sự hy sinh và tận hiến quá nhiều của nàng. Bất cứ khi nào những vấn đề về thể diện, mất tin tưởng, hoặc thiếu sự trung thành nổi lên, hãy nhớ rằng những tranh cãi hay lý luận chẳng mang lại lợi ích gì. Sự nhục mạ không thể tránh được nếu mình đi mạ lỵ người khác. Bày tỏ tình cảm chân thành hay chứng tỏ tình yêu sẽ làm tăng cường cảm giác thuộc về và chuẩn bị cho một sự thõa thuận giữa hai ngưòi với nhau. Trong bầu khí tin tưởng chân thành, những vấn đề mâu thuẫn nhất cũng có thể được giải quyết một cách tốt đẹp. Dĩ nhiên, một người vợ không tin rằng người chồng sẽ đồng ý, cũng không tin rằng bà có thể làm cho người chồng bà hiểu được quan điểm của bà, chỉ chuẩn bị cho sự giao chiến và sự thất vọng mà thôi.

VỊ TRÍ CHIẾN THUẬT CỦA NGƯỜI VỢ 

Sự nghi ngờ của người phối ngẫu thường do ước muốn vô thức muốn mình có được ưu thế trên người bạn đời, là động lực chính nằm đàng sau những vấn đề nan giải không thể tránh được. Người vợ của người say rượu, đối tượng của cảm tình và sự ngưỡng mộ của công chúng đối với sự chịu đựng và trung thành của nàng, thường đã đóng góp nhiều cho hoàn cảnh gia đình hơn bất cứ người nào khác. Thường thi một người đàn bà có tham vọng và có nhiều khả năng, thích chọn một người đàn ông thiếu cương trực và dễ chao đảo. Trong khi nàng hảnh diện về ý hướng lèo lái và cứu chàng khỏi tình trạng khốn cùng, nàng thật ra chỉ muốn nói nhân đức của nàng đối với khuyết điểm của chàng. Loại người đàn bà nầy sẽ gây khó khăn cho bất cứ đàn ông nào muốn nên tốt. Chàng không có cơ hội để cạnh tranh với nhân đức gây ấn tượng của nàng, và việc phạt nàng với cách hành xử của chàng chỉ là một an ủi nho nhỏ. Chàng ít khi nhận thấy rằng bằng cách đày đọa nàng, chàng chỉ thêm cho nàng sự vinh dự. Bà vợ của một người chồng say rượu thường là một người tử đạo đúng tiêu chuẩn. Nàng càng đau khổ, càng thêm thánh thiện. 

Trong tiến trình lịch sử của những hôn nhân như thế, chúng ta thấy có nhiều giai đoạn mà trong đó người vợ đã có thể ngăn chặn được người chồng khỏi vấn đề nghiện ngập. Một sự cứng rắn có thể làm cho chàng ý thức về những hậu quả của tư cách chàng chẳng hạn như mất nàng vào một lúc mà chàng vẫn còn muốn lo lắng cho nàng. Nhưng sau mỗi cuộc cãi vả, mỗi cuộc đe dọa, nàng nhường bước, tin vào những lời hứa mà nàng thừa biết sẽ không bao giờ được giữ. Việc chữa trị người say rượu trước nhất đòi hỏi ảnh hưởng của người vợ. Sự thánh thiện của nàng và sự tệ hại của chàng gắn liền với nhau và là tiêu biểu cho sự tử đạo. Sự mất quân bình ở đây không phải chỉ là lỗi của người nam mà thôi.  

Mới nghe, người ta có thể đổ lỗi những chuyện trục trặc nầy cho những người vợ, nhưng chúng ta hãy biết rằng mọi chuyện xảy ra đều do cả hai, không bao giờ chỉ một bên. Một cách đáng tiếc, các bà thường là những người đau khổ nhiều nhất từ sự đổ vỡ hôn nhân. Sự lệ thuộc vào sự hòa hợp của hôn nhân khiến các bà nhạy cảm hơn đối với sự hài hòa và cũng khiến cho họ cảm thấy có trách nhiệm hơn. Số phận của một cuộc hôn nhân thường tùy thuộc nhiều trên tư cách của người vợ hơn của người chồng. Trải qua nhiều thế kỷ, đàn bà được huấn luyện cho việc quản trị gia đình. Thích thú tự nhiên của họ trong việc vợ chồng có thể được khắc phục một cách dễ dàng nếu người đàn ông tỏ ra phản đối. Các bà đã và đang là một giới bị thống trị, nhưng họ lại nắm quyền ở đàng sau ngai vàng. Vị trí nầy đã khiến cho các bà dùng những phương pháp khác hơn là sự tấn công thẳng thừng, trực tiếp dành cho phái nam. Những đức tính nhẹ nhàng kín đáo của họ được so sánh với những nàng mèo dịu dàng, dễ thương, biết uyển chuyển để đền bù cho sự thiếu quyền lực của họ. Các ông nhảy múa trong khi các bà trổi nhạc. Điều nầy không có nghĩa là đàn bà không cần nhiều sự khuyến khích và sự giúp đỡ như đàn ông, nhưng bản tính đàn bà mặc khải cho chúng ta thấy nhu cầu bảo vệ của họ trong khi các ông lại không muốn như thế bỡi sự tự hào của người đàn ông. Thường người đàn ông mạnh nhất thì căn bản giống như một đứa trẻ và người đàn bà yếu nhất có thể có ảnh hưởng thuyết phục của một bà mẹ.  

KÍCH THÍCH NHỮNG SỞ THÍCH MỚI 

Không phải là vấn đề về kỷ thuật – cách nào - mà chính là thái độ mới quyết định sự thành công hay thất bại. Tình yêu thật và sự tận hiến, lòng quí mến và kính trọng chân thành đưa đến sự thõa mãn và tương hợp hỗ tương. Sự say mê thích thú về người bạn mình sẽ giúp nhận ra, mà không cần phải học về tâm lý, tại sao người chồng miễn cưỡng tham gia những buổi sinh hoạt tiệc trà của những người bạn. Sự mệt mỏi không phải là lý do thật. Nếu chàng thích giao tế xã hội nhiều, chàng sẽ không cảm thấy mệt mỏi. Chẳng hạn như chơi bài với các bạn có thể làm chàng có nghị lực ngay. Nhưng ngoài cái đó ra, chàng có thể cảm thấy chán. Nhưng lý do chính yếu nằm đằng sau tất cả những cảm giác không mấy thích thú đó là vì chàng đã không được huấn luyện cho sự tham gia sinh hoạt xã hội. Có thể chàng nghĩ rằng đến với họ là một sự phung phí thời gian và không có gì gọi là một kết quả tốt đẹp từ một sinh hoạt như thế. Chàng có thể là một người theo chủ nghĩa vật chất nên chỉ xem những công việc có tính cách vật chất là những điều có giá trị trong đời. Hoặc có thể chàng muốn trổi vượt và đã được huấn luyện kỹ lưỡng để đóng vai trò lãnh đạo trong công việc, trong gia đình với bao nhiêu người phụ tá quí mến chàng, nên chàng cảm thấy mình sẽ bị mất hút giữa một nhóm đông người thuộc những thành phần xã hội khác nhau. Không một ai sẽ chú ý đến chàng và cũng rất có thể là chàng không thể tranh với sự khéo léo về giao tế, về xã hội cũng như về khả năng của những người đó. 

Một người vợ biết tế nhị, cảm thông, và nhạy cảm đối với người chồng sẽ khéo léo xếp đặt những cuộc giao tiếp xã hội như thế để những cuộc giao tế đó mang lại cho chàng một sự khuây khỏa hay một sự thỏa mãn nào đó. Nàng nên cố gắng làm hết mọi cách để giúp chàng thay đổi cái nhìn của chàng và mang lại cho chàng những giá trị mà trước đây chàng chưa khám phá ra. Thật là dễ dàng để làm cho ông chồng khám phá ra sự thú vị của một căn nhà đẹp hay của những bữa ăn được nấu nướng kỹ càng hơn là khám phá ra cái thú vị của những cuốn sách có những tư tưởng hấp dẫn khi chàng chưa từng có một cảm nghiệm gì trước đây. Một số người nghĩ rằng sở dĩ chàng chưa thưởng thức được những thú vị mà người vợ thích thú là vì chàng chưa làm quen được. Có thể chàng đã ăn, nhưng chưa quen được với những món ăn ngon mà người vợ nấu nướng. Có thể chàng đã đọc sách, nhưng không hẳn là đọc những sách có những tư tưởng hấp dẫn. Cũng có thể là chàng đã nghe nhạc nhưng không hẳn là được nghe những nhạc hay. Chúng ta phải học thưởng thức nhạc hay mà người vợ thích, loại thức ăn mà bà vợ nấu, những cuốn sách mà nàng ngưỡng mộ. 

Trong trường hợp nầy, điều quan trọng là người vợ muốn rằng người chồng phải nhận ra giá trị của việc nàng nấu nướng vì sự nhận biết như thế làm gia tăng giá trị của nàng. Nếu nàng thật sự muốn chàng thích đọc những cuốn sách hay, nàng có thể yêu cầu chàng cho thấy cái nhìn của chàng để bổ túc cho cái nhìn riêng của nàng. Một cách căn bản, sự yêu cầu của nàng phải thành thật và phải kính trọng cái nhìn của chàng. Thoạt đầu, cái gì mới thì vô vị, đôi khi còn có cảm giác là lạ lùng và lẫn lộn. Nói chung, vị giác thường bị ảnh hưởng bỡi những kinh nghiệm được lập đi lập lại nhiều lần hay bỡi được huấn luyện. Trong lúc giới thiệu một vài kinh nghiệm mới cho bất cứ ai, nếu không ý tứ, thay vì làm cho người ta cảm thấy hấp dẫn, bấy giờ sẽ làm cho họ cảm thấy chán nản và thất vọng để rồi chúng ta phải tốn mất nhiều thời gian để thuyết phục. Một người vợ muốn chồng đi thưởng thức hòa nhạc khi chàng không hiểu nhạc cổ điển là gì thì phải đi từng bước một. Nàng phải cẩn thận chọn chương trình và cũng phải xem một vài màn phụ xen kẽ vào đó nữa. Không nên khó và cũng không nên quá lâu để chàng còn thích thú đi kèm bà vợ và cũng để chàng thưởng thức được cái mà nàng thích thú. Nhưng có quá nhiều bà đã làm mất đi những cơ hội tốt đó chỉ vì họ đã làm cho các ông cảm thấy xấu hổ bỡi cái nhìn của họ coi thế giới công việc của các ông như một cái gì thấp kém. Họ tỏ ra khó chịu đối với sự kháng cự của chàng khi thấy chàng có phản ứng ngược lại với những giá trị văn hóa cao hơn. Thay vì cảm thông với những khó khăn mà một người đàn ông cần phải thắng vượt, họ tỏ ra giận dữ với sự do dự và lo lắng của chàng. Lẽ ra một cuộc giải trí như vậy phải là nguồn của sự thích thú với nhau lại trở nên nguyên nhân của sự giao tranh, một bổn phận không vui thích cho phía bên nầy và một quyền lợi bị tước đoạt cho phía bên kia. 

Mặc dầu thường là người vợ cố gắng lôi kéo người chồng, nhưng cũng có những trường hợp người đàn ông là người thích thú hơn trong vấn đề nghệ thuật, văn hóa. Đối với những người nầy, trong hết mọi trường hợp, chàng muốn vợ mình chia xẻ sự thích thú của chàng mà rất có thể là cái gì mới mẻ đối với chàng. Như một định luật tự nhiên, các bà ít có sự khó khăn với việc chìm đắm trong sự thích thú và sinh hoạt của chồng nếu so sánh với đàn ông. Một khi người đàn bà đã thích một người đàn ông, nàng cảm thấy không có gì đe dọa đối với tiếng tăm của nàng trong việc tuân theo sự dẫn dắt của chàng ngay cả đi vào trong lãnh vực xem ra thuộc đàn ông như thể thao, thể dục. Chỉ nếu những trò giải trí của chàng không cho phép nàng tham dự và chia xẻ sự thích thú của chàng chẳng hạn như làm thợ mộc, đắp tượng, thu thập tem…chắc chắn nàng không thích tham dự những sinh hoạt giải trí đó. 

Nơi nào không có người bạn phối ngẫu can thiệp vào, nơi đó mỗi người cho thấy sự chịu đựng và cảm thông, mỗi người có thể hưởng thụ sự thích thú mà người kia không muốn hoặc không thể chia xẻ. Vì thế, sự hiện diện của những sở thích đối nghịch không là nguyên nhân của sự chán nản, thất vọng nhưng là kết quả của sự thiếu cộng tác và của sự không còn thích thú lẫn nhau. Thật vậy, những sở thích trong cùng lãnh vực cũng như trong công việc chung cũng có thể có nhiều cơ hội cho sự đụng chạm và căng thẳng, đặc biệt nếu sự cạnh tranh phát triển. Một cặp vợ chồng cưới nhau và chung sống với nhau một cách hạnh phúc luôn cố gắng phát triển những sở thích giống nhau trong cuộc sống chung. Những kinh nghiệm được chia xẻ của họ, sự xoay chuyển của những biến cố, những ấn tượng vui cũng như buồn, những lo âu cũng như thỏa mãn là những nối kết mạnh mà cuối cùng trong tuổi già không chỉ khiến họ hành động mà còn ngay cả xem ra giống nhau nữa. Làm cùng một khối giống nhau như thế là kết quả của một cái gì khác hơn là tập quán. Nó rộng lớn hơn và sâu xa hơn. Nó trở thành cái thói quen thích hoặc không thích những cái giống nhau có liên quan đến cuộc sống trong những vấn đề lớn cũng như chuyện nhỏ hầu như với một cái nhìn giống nhau. Sự phát triển những sở thích giống nhau là tự nhiên nhưng nó ám chỉ những cố gắng thật để loại bỏ những đối nghịch có thể xen vào và tạo cho thời gian nhàn rỗi của họ một cảm nghiệm thích thú cho cả hai bên. 

Một ví dụ tiêu biểu về những sở thích trái ngược và kết quả tai hại trên sự hài hòa hôn nhân là trường hợp của cô Nguyễn thi huyền Linh. Cô H. Linh là một thiếu phụ trẻ với những sở thích rộng rãi và tự do. Cô lấy ông anh của người bạn gái của cô. Trong lúc cô và bạn cô rất phù hợp với nhau trong những sở thích, cô mong người anh của bạn cô cũng giống như thế. Sau thời gian tán tỉnh, chàng rất để ý chia xẻ những sinh hoạt của nàng. Họ lấy nhau trong khi chàng còn ở trong quân ngũ, không lâu trước khi chàng đi công tác ở hải ngoại. Khi chàng trở lại, họ rất là thắm thiết với nhau nhưng rồi sau đó sự chán nản bắt đầu. Nàng khám phá ra chàng không thích nhạc cổ điển, chỉ thích ánh đèn của sân khấu tân nhạc. Về chính trị thì chàng có quan niệm đối nghịch với quan niện của gia đình. Cô cảm thấy mình bị lừa và thấy thương đau. Nàng càng phê bình và chỉ trích chàng về việc miễn cưỡng đi tham dự hòa nhạc, chàng càng giữ vững lập trường. Những tranh cãi và va chạm đã ảnh hưởng liên hệ vợ chồng. Nàng mất đi sự thích thú trong việc liên hệ vợ chồng, chàng càng đòi hỏi. Nàng cảm thấy bị lạm dụng và ngưng đáp trả. Vào lúc nầy, nàng đi bác sĩ tâm lý để xin giúp ý kiến và nàng đã bắt đầu muốn tham khảo vấn đề ly dị. 

Sau khi lắng nghe tất cả những than phiền của cô ta, tôi đề nghị gặp cả hai bên. Sau đó có sự hội ngộ ba chiều. Rõ ràng là chàng rất yêu nàng. Chàng rất là vui vẻ, phấn khởi, và hạnh phúc nhưng không hiểu tại sao nàng lại không? Chàng tỏ ra làm bất cứ điều gì cần thiết nhưng nàng vẫn giữ vững lập trường. Chàng cũng đã hứa hợp tác nhưng rồi lại không làm. Chàng chấp nhận là chàng không biết tại sao lại không thể bỏ những chuyện đã làm cho nàng sinh ra hận thù, và tại sao dẫu chàng muốn phù hợp với những ước nguyện của nàng, chàng lại không muốn làm như thế. Rõ ràng là nàng hoàn toàn đúng trong những phàn nàn của nàng. Trên bề mặt lý luận, chàng quả thật là sai. Nhưng xét về tâm lý, nàng chính là nguyên nhân của những xung khắc. Sự giận dữ, áp lựa, và bất đồng là những nguyên nhân thật của sự xung đột và làm nguy hại cuộc hôn nhân. Trong khi nàng là người quan trọng, là tất cả số phận của hôn nhân tùy thuộc vào thái độ của nàng vì chàng muốn kết hợp với nàng. Tôi quyết định và đề nghị chính nàng là người cần nên được giúp đỡ về phương diện tâm lý. 

Sau một vài lần gặp gỡ, tình thế thay đổi hẳn. Nàng nhận ra được điều đó nên nàng đã không còn giận dữ và khiêu khích nữa. Hậu quả thấy ngay trong tương quan giữa họ tiến triển tức thời. Họ xem ra thân thiết và yêu đương trở lại. Cuộc sống vợ chồng bình thường và người chồng cũng bình thường trở lại. Từ đó nàng học cách đối đãi với chồng trong một cách thế khác biệt. Nàng nhận ra nàng có thể cảm thông được những khó khăn của chàng trong việc phải ngồi suốt chương trình nặng nề khi phải đi dự buổi hòa nhạc. Trong vấn đề chính trị, nàng có thể bảo chàng bày tỏ quan điểm riêng, biết quí trọng việc nàng có thêm một quan điểm từ phía đối phương, thay vì khiển trách chàng vì quan điểm khác biệt của chàng. Nàng nhận ra rằng trong khi nàng tố cáo chàng về thái độ thiếu dân chủ, thái độ của nàng về sự thiếu kiên nhẫn đối với quan điểm chính trị của chàng có thể không được xem là dân chủ. Với thái độ trọng kính về phía nàng, có thể mong đợi rằng những ý kiến và khẩu vị riêng của chàng sẽ dần dần làm quen với nàng và cả hai sẽ xích lại gần hơn vì sự bất đồng bạo động và mạ lỵ của nàng là lý do chính khiến chàng giữ thế đối nghịch chỉ vì muốn giữ thể diện và sự tự trọng của chàng. 

Yếu tố quyết định trong việc hồi phục hôn nhân nầy là sự nhận thức ra rằng lý luận đúng thì không đủ, và rằng nàng phải chấp nhận con người chàng nữa và cũng phải bắt đầu quan tâm những điều mà nàng có thể làm được. 

GIẢI TRÍ VÀ THAM GIA XÃ HỘI 


Ngày nay hơn trước đây, chúng ta nhận thấy sự quan trọng của việc giải trí cho cuộc sống quân bình. Việc dùng thời gian nhàn rỗi cũng là một bổn phận như đi tìm một công việc thích hợp. Ngoại trừ chúng ta biết xếp đặt sự giải trí chúng ta tốt đẹp, chúng ta không có khả năng tận dụng hết sức lực cho công việc và cũng khó làm tròn bổn phận của mình đối với bạn bè và gia đình. Bổn phận của mỗi cặp hôn nhân không phải chỉ học cách làm việc với nhau mà còn phải học cả cách hưởng thụ cuộc đời với nhau nữa. 



Tuy nhiên, làm sao có thể tận hưởng được cuộc đời hôm nay khi sự khốn cùng bao vây chúng ta, và sự đụng chạm và hận thù thì rộng lan? Có nhiều cách hưởng thụ cuộc đời, hưởng thụ niềm vui. Niềm vui có thể là yên tĩnh hay náo nhiệt, đam mê bồng bột hay trầm lắng nhưng tất cả đều chỉ một sự chấp nhận lớn lao. Những người không chống đối cuộc đời, những người mà cảm xúc của họ không đặt nền tảng trên sự hận thù, tận hưởng cuộc đời cách bình an. Họ có thể hưởng thụ nhau, họ có thể hưởng thụ sự chung sống với nhau không kể điều mà người kia làm. Họ thích thú việc cùng đi chung với nhau nhiều chỗ, họ thích sự phát triển những sở thích mới mà ở đó người già cho phép phát triển. Nhưng họ không nên quên rằng hôn nhân không thể thay thế cộng đoàn lớn lao hơn mà ở đó mỗi người thuộc về – đó là những bạn bè, hội đoàn, khu xóm, quốc gia, và nhân loại. 

Không kể hai người sống hạnh phúc với nhau thế nào, nếu hai người phù hợp với nhau trong việc không đếm xỉa gì đến thế giới bên ngoài, họ sẽ phải trả giá cho vấn đề đó. Một cuộc hôn nhân tránh xa thế giới bên ngoài, có thể cung cấp sự thỏa mãn sâu xa cho chính họ, nhưng họ phải làm cho người kia tồn tại và không tìm ra lối đi để tìm lại được cuộc sống. Nếu họ có con, họ phải bảo vệ chúng  chống lại với những đòi hỏi của thế giới bên ngoài. Họ phải đau khổ, hoặc họ thành công trong việc làm cho con cái họ xa lạ với thế giới bên ngoài đó, hoặc họ sẽ mất chúng vì chúng sẽ chạy theo thế giới đó. Đơn vị của hai người phải được đặt vào đơn vị lớn hơn, được cung cấp bỡi bạn bè, hội nhóm mà họ thuộc về. Giao tế xã hội với bạn bè, với những sinh hoạt xã hội, sẽ nối kết cặp vợ chồng với thế giới bên ngoài, giúp họ bổ túc cuộc sống gia đình như công việc làm và giải trí bổ túc cho nhau. Quên mất một bên là có nguy hại. 

Giao tế xã hội và say mê về tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, chính trị không là những tham vọng tưởng tượng của vợ hoặc chồng. Chúng tiêu biểu một nền tảng rộng rãi cho cảm giác thuộc về một đơn vị rộng lớn hơn là hôn nhân. Khuynh hướng sống xa cách thế giới bên ngoài chỉ sự hận thù sâu xa và thiếu sở thích về xã hội. Qua những sinh hoạt được nhắc nhở đó, chúng ta tham dự vào tinh thần với người khác. Chúng ta chia xẻ tư tưởng và công việc của họ. Chúng ta trở thành một phần trong nhân loại và hôn nhân chúng ta trở thành một của cái toàn thể nhất thống trong giòng tiến hóa trong đó mọi người đều dấn thân vào. Hôn nhân càng bị hút vào trong giòng sống hiện tại, nó càng là một phần của cuộc sống, một cuộc sống vững chắc và bình an. Bạn bè tốt và sự tận hiến cho nhau trong đời sống vợ chồng là một sự giúp đỡ vô giá trong những lúc khủng hoảng và buồn chán. Bạn bè không những làm phong phú đời sống hôn nhân nhưng còn giúp chúng ta chống lại những khó khăn, chán nản, xung khắc, và những hận thù là những điều không thể tránh được cách hoàn toàn khi hai người chung sống với nhau. 

LÝ DO THẬT CỦA NHỮNG CHÁN NẢN THẤT VỌNG 

Đằng sau những rắc rối và những xung đột của hôn nhân là những thái độ và những quan niệm sai lầm. Nhiều chán nản đến từ việc so sánh hoàn cảnh hiện tại với những mong đợi của quá khứ. Không may cho chúng ta là cả hai thường đã được diễn giải các sai lầm. Ít khi chúng ta ý thức về điều chúng ta đã mong đợi và thường phán đoán sai lầm điều chúng ta có. Kinh nghiệm chúng ta thì thuộc về phía với điều chúng ta trông mong. Chúng ta không nhận ra những mong đợi chúng ta cũng như những đóng góp riêng của chúng ta đã góp phần vào sự chán nản thất vọng hiện tại. Chúng ta lẫn lộn cái ao ước với cái mong đợi và khi biến cố xảy đến khác với điều chúng ta mong muốn, chúng ta không chịu trách mình mà chỉ trách những yếu tố bên ngoài. Chúng ta muốn bình an và hạnh phúc nhưng thật ra chúng ta có cố gắng thực hiện điều đó không? Rất ít, chúng ta đã làm rất ít để chiếm được điều chúng ta muốn đó. Chúng ta thường hành động dường như mọi sự đi sai lầm và dường như hạnh phúc không bao giờ đạt được. Chúng ta không mong chính chúng ta hành động một cách thích hợp vì chúng ta không tin vào khả năng của chúng ta có thể thỏa đáp được những khó khăn đó. Chúng ta không chấp nhận rằng chính chúng ta đã đóng góp nhiều vào trong những rối loạn và khó khăn hiện tại. Chúng ta cảm thấy mình bị khiêu khích mà không nhận thấy chính chúng ta khiêu khích người khác bao nhiêu. 

Bao lâu chúng ta còn giữ được sự tin tưởng và hy vọng, chúng ta còn có thể chịu đựng được sự chán nản và bất mãn. Nhưng sẽ có một lúc, chúng ta sẽ có cảm giác rằng chúng ta không thể chịu đựng nổi nữa, rằng một cái gì tan vỡ trong chúng ta, và một tổn thương không thể chữa trị được nữa. Nhưng điều nầy, thỉnh thoảng ngay cả về phần thể lý, cảm giác sụp đổ bên trong chỉ sự nhất quyết rút lui, chối từ sự tiếp tục cộng tác. Tình trạng hiện hành đó không bao giờ là nguyên nhân mà chỉ là gánh nặng cuối cùng, một căng thẳng quá đỗi do một sự ràng buộc đã quá sức. Với một con người không mất can đảm, những rắc rối hiện tại đều có thể được giải quyết và sẽ không bao giờ có cảm giác đầu hàng. Họ sẽ không bao giờ cho phép mình đi xa hơn vượt khỏi những đồng bạn của họ.  

Hàng động và thái độ chúng ta ảnh hưởng không chỉ điều kiện chúng ta sinh sống mà còn ảnh hưởng cách hành xử của những người chung quanh chúng ta nữa. Trong hôn nhân hạnh phúc, cả hai người đều trở nên những con người tốt bằng cách chung sống hòa bình với nhau. Với hôn nhân bất hạnh, mỗi người đều khiêu khích bản tính xấu nơi người khác. Như một kết quả, động lực và cá tính đặc biệt cùng nhau làm xấu hơn. Bản tính phá hoại của sự thù nghịch, sự chèn ép, và tố cáo dẫn đến sự thiếu trách nhiệm. Cả hai đều cảm thấy bất an và bị khiêu khích đưa đến hành động chán nản, bất mãn, và trả thù. Mỗi người trở nên cái người kia nghĩ rằng họ sẽ là như thế và thường là không tốt. Tuy nhiên, cả hai đều đồng ý trên một điểm là người kia thì sai, chỉ họ mới đúng. 


TÌM CÁCH GIẢI QUYẾT

Chúng ta phải chú trọng: những lời tường thuật nầy thì không là lý thuyết nhưng có hiệu quả rất thực tế. Chúng ta có thể thay đổi toàn thể cuộc đời chúng ta và thái độ của những người chung quanh chúng ta bằng cách thay đổi chính chúng ta. Sự thay đổi thì không dễ. Sự thăng tiến thì có thể chỉ khi sự khởi đầu nơi chính mình được nhận thấy và được chấp nhận. Có quá nhiều người cố gắng giáo dục và thay đổi người bạn mình. Có biết bao người đi đến hôn nhân với ý nghĩ sẽ thay đổi được người bạn. Trong cuộc sống chung, chúng ta ảnh hưởng và thay đổi lẫn nhau không phải bằng cách chú trọng trên sự thay đổi người bạn mình. Chỉ bằng hành vi của riêng chúng ta, chúng ta có thể ảnh hưởng được những người chúng ta cùng chung sống. 

Bất cứ điều gì xảy ra trong liên hệ hôn nhân đều cho thấy tương quan của cả hai người phối ngẫu. Thay vì đòi hỏi chung chung: “Nếu bạn tôi thay đổi, tôi cũng vui vẻ thay đổi”. Chúng ta nên nhận thấy sự thật nầy là: “Nếu tôi thay đổi hành vi thái độ của tôi, người bạn mình không thể tiếp tục lối xử sự của họ”. Ngay cả những thay đổi nho nhỏ trong thái độ của người nầy cũng được phản ảnh ngay lập tức trong thái độ của người kia. Không nhận ra được điều đó, chúng ta không thể hiểu được sức mạnh đáng kể của tương giao hài hòa. 
Thật bất hạnh cho chúng ta là chúng ta biết nhiều về cách thế để giao chiến nhau, để giết hại nhau, để đâm chém nhau hơn là cách thế để làm vui lòng nhau, để yêu nhau, để cảm thông tha thứ, hay để mang lại hạnh phúc cho nhau. Vì thế, chúng ta thường thành công trong việc đâm chém nhau hơn là đi tìm hòa bình. Chúng ta thường tốn phí quá nhiều thì giờ và tiền bạc để tìm những mánh khoé, những mưu mô, những thủ đoạn bất chính để làm hại người khác nhất là khi cuộc chiến đã bùng nổ. Trong mối tương quan vợ chồng cũng vậy, chắc chắn cũng đã có những cuộc chiến cũng như những tranh chấp đã từng xảy ra trong quá khứ, nên rất cần có thời gian để thiết lập lại một bầu khí kính trọng và tin tưởng nhau.  

Nên biết rằng không phải mọi người đều hoàn toàn xấu hay hoàn toàn tốt cả đâu. Cái khả năng có thể trở nên tốt hay xấu đều hiện hữu trong mỗi con người chúng ta. Chính người chồng cũng như người vợ đều có khả năng để làm cho cái tốt hoặc cái xấu của người bạn mình chổi dậy. Nhưng họ biết gì về người bạn của mình? 

Dẫu cho họ sống chung với nhau trong cùng một căn phòng, ăn cùng một bàn, ngủ cùng một giường, nhưng họ biết về nhau được bao nhiêu? Cứ sự thường, họ chỉ biết về những thói xấu của nhau như thích nắm quyền, thích phàn nàn, thích tiêu tiền, thích rượu chè, không thích làm việc. Nhưng họ không biết được nguyên nhân nào đã làm cho bạn mình có thái độ sống như vậy. Và một khi họ thấy chán chường, họ chỉ muốn loại bỏ những chứng bệnh đó mà không muốn thỏa đáng những nhu cầu tâm linh cần thiết giữa họ với nhau. Tuy nhiên, khi hai người có dịp sống xa cách nhau thì lại là dịp họ sẽ hiểu nhau nhiều hơn lúc trước. Chính những tranh quyền tranh lợi đã làm cho đầu óc họ ra tối tăm. Mỗi khi đổ lỗi cho nhau, họ cố gắng bào chữa những sai lầm của mình. 

Chính việc không biết đến những quyền lợi căn bản của người khác đã làm cho họ cứ tiếp tục tranh đấu cho quyền lợi cá nhân của riêng mình. Điều mà họ nói về người khác thì thường là đúng, dầu những tường thuật giữa họ xem ra là mâu thuẫn với nhau. Nhưng điều quan trọng không phải là ai sai ai đúng, vì mỗi người đều đúng dưới cái nhìn của riêng mình nhưng sai dưới cái nhìn của đối phương. Nếu chúng ta yêu một người nào, chúng ta sẽ không hỏi người đó đúng hay sai. Đó là lý do tại sao người ta thường nói “yêu là mù quáng”. Nhưng tình yêu thì không nhất thiết mù quáng. Chúng ta thường nói “anh yêu em dẫu em có bất toàn”, anh yêu em và chấp nhận em như em hiện là. Điều đó có nghĩa là dẫu em đẹp hay em không đẹp, em tốt hay em xấu, anh vẫn yêu em. Nhưng sau đó, khi quyền lợi của chúng ta bị đe dọa, chúng ta sẽ không chấp nhận nhau như trước nữa. Trái lại, để tranh đấu cho ưu thế của chúng ta, chúng ta thường đi tìm những lỗi lầm nơi người bạn chúng ta và dùng chúng như những lý do chính đáng để chấm dứt sự cộng tác của chúng ta. Hãy nhớ rằng đối với sự hạnh phúc của chúng ta, câu hỏi sai hay đúng không phải là quan trọng, nhưng biết chấp nhận cái xấu cũng như cái tốt của người khác mới là quan trọng. 

Chúng ta cần nhớ rõ điều đó khi có sự bất đồng ý kiến hoặc sự chán nản đe dọa đời sống hôn nhân của chúng ta. Bước đầu tiên cũng như điều kiện trước tiên cho mọi cuộc thăng tiến là chấp nhận tình trạng hiện đang có. Cần phải đối diện vấn đề một cách can đảm là điều kiện thiết yếu cần có trước nhất để có một lối thoát cho vấn đề đang gặp phải. Điều đó dĩ nhiên không phải là dễ. Nhưng chạy trốn thực tại thì không phải là cách thế thực tế. Không có vấn đề nào được giải quyết bằng cách thế đó. Một khi chúng ta đã quyết định đối diện vấn đề là chúng ta đang đi đúng đường. Sau khi loại bỏ được ảo giác cho rằng chúng ta có thể thành công bằng các giao chiến và áp lực vấn đề, khuất phục được cảm giác không phù hợp trong con người chúng ta, và nhận ra rằng đối phương cũng đau khổ như chính mình là chúng ta đã tìm ra những giải quyết. Tuy chậm và cũng có thể là không thích hợp ở lúc đầu, nhưng với sự can đảm gia tăng, chính sự tự tin sẽ làm chúng ta ít bị thương tổn và giúp chúng ta ngày càng đạt được kết quả tốt đẹp hơn. 

Mẫu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta có ít nhiều kinh nghiệm trong việc đối đầu với những lủng củng của chúng ta trong đời sống hôn nhân. Những lủng củng đó có thể được lọai bỏ hoặc giải quyết một cách dễ dàng nếu cả hai người phối ngẫu hiểu được những động lực sâu xa đang tiềm ẩn đàng sau những biến chứng đang xảy ra. Một khi họ nhận thức được tất cả những nguyên nhân đó, họ sẽ không còn giận dữ và lên án nhau nữa. Trái lại, họ cố gắng đi tìm những cách thế để thay đổi tình huống một cách tốt đẹp. 

Chị Nguyễn thị Kim Dung là một người đàn bà trẻ trung, thùy mỵ, và dễ thương. Chị có một vấn đề xem ra không có gì quan trọng, nhưng đang đe dọa đời sống hôn nhân của chị. Chị lấy chồng được một năm và xem ra rất hòa hợp trong đời sống vợ chồng cũng như trên bình diện xã hội. Nói chung, vợ chồng chị sống vui vẻ với nhau ngoại trừ một vấn đề bất ổn dần dần đã làm cho cuộc hôn nhân của họ mất đi hòa khí và trở thành nặng nề.  

Chị ta cho biết rằng dầu chị đã cố gắng hết sức, chị cũng không thể làm cách nào để chồng chị trao tiền cho chị mua thức ăn cũng như trang trải những chi phí khác đúng thời gian. Chị ta cứ phải hỏi tiền mỗi tuần nhiều lần. Nếu chị ta không hỏi, anh ta quên đưa tiền cho chị cho tới khi tuần đó qua đi. Chị có đem chuyện đó ra nói với anh ta, rồi còn năn nỉ và hăm dọa anh ta nữa, nhưng tất cả đều vô ích. Họ càng gây lộn với nhau thì anh ta càng ít đưa tiền cho chị. Vậy chị ta có thể làm được gì? Bây giờ thì anh ta bắt đầu tố cáo chị tiêu tiền quá nhiều. Chị ta phải làm gì để tránh chiến tranh bùng nổ?  
Tôi có thể hiểu được tình cảnh khó khăn của chị. Chị không thể nào dự trù được ngân sách của chị ngay cả đến những bữa ăn. Chị ta phải đi mượn tiền, phải đi vay nợ, đó là những điều mà chi rất ghét. Nhưng chị ta cũng không thể làm gì khác hơn là năn nỉ hay đe dọa. 

Thật rõ ràng là thái độ phi lý của người chồng. Người chồng xem ra là kỳ cục nếu chỉ nhìn trên bình diện lý trí. Anh ta không có quyền cũng như không có lý do chính đáng để hành động như thế. Nhưng tình huống có thể là khác hẳn nếu được nhìn dưới nhãn quan tâm lý. Anh ta yêu vợ và hy sinh cho vợ rất nhiều đến nỗi chị ta có thể thuyết phục anh ta làm bất cứ điều gì chị ta muốn. Chị đã làm như thế, ngoại trừ trong vấn đề nầy, bỡi lẽ chỉ còn một lãnh vực duy nhất mà anh ta cảm thấy có thể còn giữ được uy thế, còn giữ được thế thượng phong, đó là vai trò cung cấp. Anh ta muốn lợi dụng vai trò nầy để giữ được uy quyền của mình trên người vợ, nhưng anh ta hoàn toàn không ý thức gì về chuyện đó. Anh muốn được hỏi và được xin. Nếu anh ta trao cho chị số tiền ngay vào đầu tuần, uy quyền của anh sẽ không còn. Nhưng anh ta không thể cắt nghĩa điều đó cho chị ta được vì anh ta hoàn toàn vô ý thức về vấn đề nầy. Anh ta hoàn toàn vô thức về động lực tâm lý của mình. Vì thế, khi chị ta tố cáo anh, anh ta phải đi tìm những lý do loanh quanh để cắt nghĩa. Nhưng những lý do loanh quanh đó chỉ làm cho chị ta thêm tức giận mà thôi. Do đó, họ đã đi đến chỗ bế tắc trong cuộc chiến tranh lạnh và cũng rất có thể làm cho cuộc hôn nhân của họ đi đến chỗ tan vỡ. 

Sau khi giúp chi ta hiểu được lý do tại sao chồng chị đã làm như thế, chị ta không còn tức giận nữa. Chị đã tìm ra cách thế dễ dàng để giải quyết vấn đề của chị. Trước hết, chị ta không còn khó chịu nữa, nhưng rất vui vẻ hỏi anh ta điều chị cần đến. Thứ đến, chị muốn anh ta cũng được vui vẻ. Và nếu đó là cách làm cho anh ta vui vẻ, tại sao chị lại không làm? Chị có thể lấy một trăm đô la như chỉ lấy hai mươi đô la nếu chị chịu hỏi anh ta nhiều lần. Quả thật, anh ta rất rộng rãi với chị. Vì thế, sau đó nhiều lần chị ta đã lấy không những một vài trăm mà ngay cả một vài ngàn một cách dễ dàng để chi trong những việc cần thiết mà không có gì rắc rối. 

Điều mà chị ta học được từ kinh nghiệm nầy là: làm một cái gì khác hơn là giải quyết vấn đề tiền bạc. Chị đã khám phá ra rằng cái nguy hiểm thật của họ nằm trong chỗ tranh chấp quyền hành lẫn nhau, và rằng anh ta thật sự sợ chị nắm quyền trên anh ta. Nhờ tâm lý, chị ta đã hiểu được cái gì là động lực sâu xa, đâu là lý do tại sao đã khiến anh ta hành động như vậy? Sau khi đã khám phá ra được điều đó, chị đã có thể tìm được một phương cách để giải quyết vấn đề của chị một cách thành công và dễ dàng.


Nguồn: Công Giáo Việt Nam