„Tuyên thánh“ đúng hơn là „phong thánh“. Từ phong thánh quen
dùng trong tiếng Việt, nguyên ngữ từ tiếng Hy Lạp “Kanon” có nghĩa là thước đo
hay tiêu chuẩn hay được nhìn nhận là có giá trị. Ý nghĩa nầy được tìm thấy
trong động từ canonizare của tiếng La tinh, rồi canoniser trong tiếng Pháp và
Canonize trong tiếng Anh.
Những tín hữu trong thế kỷ đầu đã phong thánh cho các Tông Đồ khi gọi các Ngài là Thánh. Những vị tử đạo cũng được gọi là thánh. Rồi những thế kỷ kế tiếp, những giáo dân có đời sống thánh thiện, nêu gương sáng và thành mực thước cho người đời cũng được tuyên bố “đang ở trên thiên đàng” tức là thánh.
Vai trò của Giáo Hội là tuyên thánh, tức chính thức tuyên bố
rằng: Ông A, bà B, hay Đức Cha C, hay linh mục D hay tu sĩ G… đã có đời sống
thánh thiện khi còn sống và đang ở trên trời với Chúa. Từ nay họ được kanon,
tức thành mẫu mực đáng cho chúng ta kính trọng, bắt chước và được cho vào danh
sách phụng vụ chư thánh.
Tiến trình tuyên
thánh
Bài viết dựa theo:
1. Những thông tin được Văn Phòng báo chí Vatican phổ biến
ngày 12.9.1997 nhằm cắt nghĩa những điều lệ liên quan đến vấn đề tuyên
thánh được qui định trong Tông huấn Divinus Perfectionis Magister, do Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.1.1983.
2. “Special Problems in Canon Law III – Canonizations, do
linh mục Roland Jacques, omi. tức Cha Dương Hữu Nhân, Cha Giáo Sư và Khoa
Trưởng Giáo Luật Đại Học St. Paul ở Ottawa soạn và dạy trong niên khoá
2007-2008.
3. Cha Giáo Dương Hữu Nhân đã có công rất lớn trong việc vận
động tuyên phong Chân Phước cho Thầy Giảng Anrê Phú Yên, sinh năm 1625, mà
Cha Nhân gọi là người Anh cả trong hàng các Thánh Tử Đại Việt Nam, chết ngày
26.7.1644. Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho Anrê Phú
Yên ngày 5.3.2000 tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma.
Giai đoạn sơ khởi và những yếu tố căn bản cần biết.
1. Ứng viên tuyên thánh phải là một người Công Giáo hay dự
tòng đã chết, tức đang ở trên thiên đàng. Không có vấn đề tuyên thánh cho ai
còn đang sống.
2. Dư luận thuận lợi, kéo dài, công khai và mạnh mẽ về đời
sống thánh thiện hay gương anh hùng tử đạo của ứng viên. Nếu có trở ngại và
chống đối không thể vượt qua được, xin sớm huỷ bỏ tiến hành án tuyên thánh. Chỉ
nên bắt đầu sau khi ứng viên đã chết đủ năm năm.
Mẹ Chân Phước Têrêsa thành Calcutta chết ngày 5.9.1997 và
được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước ngày 19.10.2003, tức
sau sáu năm 1 tháng và 14 ngày.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chết ngày 2.4.2005 và sẽ được
tuyên phong chân phước ngày 1.5.2011, tức sau sáu năm một tháng.
3. Phải có thỉnh nguyện viên yêu cầu lập án tuyên thánh.
Thỉnh nguyên viên có thể là: cá nhân một giáo dân, một nhóm giáo dân, một tổ
chức có tư cách pháp nhân như giáo xứ, địa phận, Hội Đồng Giám Mục địa phương
hay một bộ ở Giáo triều Rôma được thiết lập bởi Giáo Luật hay bởi Giáo quyền có
thẩm quyền.
4. Giám Mục địa phận ex officio tức Giám Mục địa phương
đương quyền. Tuy nhiên, ngài nên tránh khởi án tuyên thánh vì Ngài sẽ phải là
chánh án trong toà án địa phận.
5. Cáo thỉnh viên (postulator) thường là một linh mục, được
yêu cầu và được uỷ thác để chuẩn bị và trình bày thỉnh nguyện tuyên thánh: Phải
được thỉnh nguyện viên yêu cầu và Giám Mục thẩm quyền chấp thuận; Phải thu tập
tất cả những gì có liên quan đến ứng viên tuyên thánh: tiểu sử, văn từ, nhân
chứng, chứng từ, hình ảnh…. Phải chịu trách nhiệm tài chánh để chi trả cho tiến
trình tuyên thánh. Khi án tuyên thánh tiến sang giai đoạn ở Roma, cần một tân
cáo thỉnh viên thường trú ở Roma để ứng phó với mọi tình huống liên quan đến vụ
án.
6. Thường có hai loại nhân chứng: Nhân chứng de visu
tức chứng kiến tận mắt và nhân chứng de auditu, nhân chứng được nghe từ nhân
chứng de visu. Không chấp nhận nhân chứng de auditu ab audientibu tức nhân
chứng nghe lại từ nhân chứng de auditu. Không giới hạn số nhân chứng, tuy
nhiên, có một số người không được làm nhân chứng được như: Cáo thỉnh viên hay
phó cáo thỉnh viên vụ án, viên chức trong toà án tuyên thánh cấp địa phận, cha
giải tội và cha linh hướng của ứng viên.
7. Cáo thỉnh viên chính thức đệ trình bằng văn bản với Giám
Mục đương nhiệm những gì có liên quan đến ứng viên: tiểu sử, nhân đức trổi
vượt hay chứng từ tử đạo, dư luận thuận lợi, văn từ đã xuất bản và chưa xuất
bản, danh sách nhân chứng, những “sự lạ” nghĩ là đã được Chúa nhậm lời qua lời
chuyển cầu của ứng viên và cả những bất lợi nếu có… và xin Ngài cho phép tiến
hành án tuyên thánh.
Giai đoạn I: Thiết
lập án tuyên thánh cấp địa phận
1.Giám Mục địa phận đương quyền nên hỏi ý kiến của các Giám
Mục địa phận phụ cận, các Giám Mục trong Giáo tỉnh hay ngay cả Hội Đồng Giám
Mục về việc thực hiện tiến trình tuyên thánh. Phổ biến công khai thỉnh nguyện
tuyên thánh cho ứng viên. Sau đó, Ngài cho thiết lập uỷ ban giám sát (board of
inquiry) gồm những linh mục có kiến thức thần học, giáo luật và lịch sử để bảo
đảm cho tiến trình hợp luật.
2.Sau khi đã có nhận được những xét đoán khôn ngoan thuận
lợi, Giám Mục địa phận cho triệu tập giáo dân, tuyên bố chính thức thực hiện
tiến trình tuyên thánh cho ứng viên được thỉnh nguyện.
3.Những thần học gia được chỉ định để nghiên cứu những văn từ
của ứng viên tuyên thánh liên hệ đến đức tin và luân lý. Những sử gia và văn
khố viên có nhiệm vụ trình bày về sự xác thực, giá trị của những văn từ và cả
nhân cách của ứng viên qua những văn từ nầy.
4.Giám Mục thẩm quyền để cử Công tố Viên (promotor
iustitiae) để xem xét về kết quả những nghiên cứu trên những văn từ của ứng
viên. Công tố Viên có thể nêu những thắc mắc với Uỷ Ban Giám Sát. Sau khi không
thấy có gì trở ngại, Đức Giám Mục địa phận cho phép phổ biến hình ảnh cũng như
tiểu sử của Ứng Viên tuyên thánh trong Giáo phận mình.
5.Giám Mục địa phận gửi tất cả những tài liệu, án từ đến Bộ
Tuyên Thánh Roma (Congregation for the Causes of Saints). Tài liệu phải được uỷ
viên thư ký địa phận ký tên và đóng dấu trên từng trang. Bộ Tuyên Thánh của Rôma
sẽ liên hệ với Bộ Giáo Lý Đức Tin (Congregation for the Doctrine of the Faith)
và những văn phòng ở Toà Thánh có liên quan. Sau khi không nhận được một phản
kháng nào, bộ tuyên thánh sẽ ra văn thư gọi là Nihil obstat, tức không có gì
trở ngại, gửi cho Đức Giám Mục địa phận và cho phép tiếp tục tiến hành vụ án
tuyên thánh.
Giai đoạn II: Danh
hiệu “Đầy Tớ Chúa” và tiến hành giám sát về nhân đức hay việc tử đạo.
1. Sau khi nhận được Nihil Obstat từ bộ Tuyên Thánh, Giám
Mục đương quyền ra quyết định chính thức:
a) Nhìn nhận và tuyên bố ứng viên là Đấy Tớ Chúa.
b) Thiết lập toà án cấp địa phận gồm có: chánh án (được hiểu
là Giám Mục địa phận, tuy nhiên Ngài nên bổ nhiệm một linh mục có khả năng thần
học, giáo luật và lịch sử đảm trách thay thế ngài); Công tố viên và vài Lục sự.
c) Thẩm phán có nhiệm vụ thăm viếng mộ phần của Đầy tớ
Chúa và không nên chấp nhận những sùng bái nếu có. Thẩm phán phải theo
những nguyên tắc Giáo Luật qui định về việc phỏng vấn nhân chứng ở những điều
khoản 1548, 1553, 1558 và 1559.
d) Công tố viên: Phải là một linh mục thông thạo thần
học, giáo luật và lịch sử và được Đức Giám Mục địa phận bổ nhiệm, GL. 1435. Nhiệm
vụ: hiện diện trong tất cả mọi phiên toà, tra xét mọi chứng từ, ký nhận và bảo
đảm tiến hành hợp luật.
e) Lục sự: có thể là một giáo dân có tiếng tốt được
chỉnh định bởi Giám Mục hay chưởng ấn địa phận. Nhiệm vụ: ghi chép đúng nguyên
văn lời khai, hành động và chứng từ.
f) Thiết lập bản câu hỏi: Có chuyên viên thiết lập bản
câu hỏi và thông qua với uỷ ban Giám Sát địa phận. Không được trao bản câu hỏi
cho nhân chứng trước. Nên cho nhân chứng thấy tiến trình thời gian cuộc đời của
Đầy Tớ Chúa để theo dõi và cung cấp chứng từ cụ thể.
2. Phiên họp mở màn (Không nên diễn ra long trọng tại
nhà thờ chánh toà nhằm tránh mọi ngộ nhận rằng: Đầy tờ Chúa đã được tuyên
thánh): Giám Mục địa phận xác định việc bổ nhiệm: Chánh án, công tố viên, lục
sự và uỷ viên giám sát. Giám Mục nhận lời thế của các viên chức toà án. Chưởng
ấn ký nhận. Giới thiệu nhân chứng. Xác định chỗ lấy chứng từ. Có thể mời gia
đình của Đầy tớ Chúa tham dự phiên họp mở màn nầy.
3. Thể thức sát hạch nhân chứng: Tất cả đều phải thề
nói sự thật và chỉ sự thật. Chỉ có chánh án, công tố viên, lục sự và nhân chứng
hiện diện. Giám Mục (nếu không là chánh án) và cáo thỉnh viên không được hiện
diện. Giữ Giáo Luật các điều khoản 1539, 1547 và 1574 để có những chứng từ xác
thực. Nhân chứng và công tố viên phải ký nhận trên từng trang chứng từ. Nếu có
sửa chữa, công chứng viên và nhân chứng phải ký nhận. Sau cùng, lục sự đọc lại
chứng từ và ký nhận.
4. Kết thúc giai đoạn giám sát nhân chứng cấp địa
phận:
a) Gom góp tất cả những dữ kiện, chứng từ, sửa đổi, ghi
chú, duyệt xét, đọc lại và tất cả thành viên toà án và nhân chứng thề rằng: đã
cung cấp chứng từ thật.
b) Chánh án, công tố viên, lục sự đi viếng phần mộ cũng
như những nơi được nhân chứng đề cập có liên quan đến Đầy tớ Chúa.
c) Hồ sơ, tài liệu được lập thành ba bản: Nguyên bản
(archetypum) được niêm phong và lưu giữ ở văn khố Toà Giám Mục địa phận. Hai
phó bản được lục sự đóng dấu, ký tên và gửi sang sang Roma. Một bản gọi là
transumptum gởi đến bộ tuyên Thánh và giữ ở văn khố. Bản còn lại cũng gửi đến
bộ tuyên thánh nhưng được trao cho cáo thỉnh viên hay những ai đang nghiên cứu
về án tuyên thánh khảo sát.
d) Cáo thỉnh viên có nhiệm vụ mang sang Roma và trao cho bộ
tuyên thánh: Lá thư gửi cho bộ trưởng bộ tuyên thánh. Hai phó bản do toà
án địa phận thiết lập đã nói. Sách viết, thủ bản, văn thư, chứng từ của đầy tớ
Chúa.. Tất cả được gọi là instrumentum được chứa trong một hộp, niêm phong gọi
là clausurae. Án từ đã gửi đi, kết thúc giai đoạn tiến trình tuyên thánh cấp
địa phận.
Giai đoạn III: Tiến
trình án tuyên thánh ở Roma
Không qua đường bưu điện, nhưng Cáo thỉnh viên phải mang hộp
niêm phong tài liệu từ địa phận sang Roma. Yêu cầu Bộ tuyên thánh nhận và ra
quyết định cho tiếp tục án tuyên thánh ở Roma.
Tân cáo thỉnh viên được thỉnh nguyện viên chỉ định và được
bộ tuyên thánh nhìn nhận. Tân cáo thỉnh viên phải ở Roma.
Cáo thỉnh viên yêu cầu Bộ tuyên thánh ra quyết định nhìn
nhận tiến trình đã thực hiện ở cấp địa phận là hợp luật và thành sự. Nếu tiến
trình sơ khởi ở địa phận hợp luật và thành sự, tân cáo thỉnh viên yêu cầu bộ
tuyên thánh cho nghiên cứu để xúc tiến việc tuyên thánh.
Sau khi đã ra quyết định nhìn nhận tiến trình sơ khởi của
cấp địa phận, bộ tuyên thánh sẽ bổ nhiệm những viên chức như: Công tố viên,
những nhà nghiên cứu sử học, báo cáo viên (Relator). Về phía thỉnh nguyện viên,
được yêu cầu chọn một người cộng sự gọi là collaborator. Relator và
Collaborator sẽ viết một positio, tức tiểu sử của đầy tớ Chúa, liên quan đến
nhân đức trổi vượt hoặc việc tử đạo. Đại khái một positio như sau:
Thông tin về bốn điểm: lịch sử tiến trình sơ khởi -
phương pháp thực hiện – tiểu sử đầy tớ Chúa và dư luận về đời sống nhân đức
thánh thiện hay chứng từ tử đạo.
Trưng dẫn dữ kiện cụ thể, chứng từ và nhân chứng.
Tài liệu: Giấy rửa tội, chứng từ của gia đình, địa phận
hay dòng tu.
Relato et Vota: Báo cáo và biểu quyết. Nếu đồng ý, bộ tuyên
thánh sẽ để cử sáu nhà nghiên cứu sử học, mười tư vấn thần học để nghiên cứu
trên positio. Nếu hai phần ba trong số nầy biểu quyết thuận, án tuyên thánh sẽ
được báo cáo với bộ Giáo Lý Đức Tin. Nếu không, yêu cầu làm lại.
Giai đoạn hai ở Roma: Nâng Đấy tớ Chúa lên Venerable, Bậc
đáng kính.
Các hồng Y và Giám Mục trong và ngoài Rôma được triệu tập và
được cáo thỉnh viên yêu cầu chấp nhận án tuyên thánh. Một Ponens, tứ báo cáo
viên được chọn từ các hồng y hay giám mục, thành viên của bộ tuyên thánh được
bổ nhiệm để chấp nhận án tuyên thánh và báo cáo với Đức Giáo Hoàng. Một khi Đức
Thánh Cha đã nhìn nhận những nhân đức siêu vượt hay cái chết anh hùng của dầy
tớ Chúa là xác thực, Ngài ra quyết định cho nâng Đầy tớ Chúa lên Bậc đáng kính.
Giờ đây, người ta được quyền làm Holy Card, tức thiệp thánh, có hình của Bậc
Đáng Kính và kinh nguyện xin Chúa thực hiện dấu lạ qua sự chuyển cầu của Bậc
đáng kính.
Đến đây, tiến trình tuyên thánh đã trãi qua hai giai đoạn
rất khó khăn:
Thiết lập toà án cấp địa phận để thu thập tài liệu, chứng từ
và sát hạch chứng nhân và đề xuất sang Rôma để nhận Nihil obstat và ứng viên
được gọi là: Đầy tớ Chúa.
Mang án tuyên thánh sang Roma và chịu sự làm việc rất tỉ mỉ
và tốn kém của bộ tuyên thánh để đầy tớ Chúa được nhìn nhận là bậc đáng kính.
Giai đoạn IV: Phép
lạ và tuyên phong chân phước
Phép lạ: Được coi như sự chuẩn nhận của Chúa trên ứng
viên tuyên thánh đang ở trên Trời. Ngay từ thế kỷ thứ 13, dưới thời Đức Giáo
Hoàng Innocent III, Giáo Hội đòi buộc phải có phép lạ thực hiện nhờ lời chuyển
cầu của những Bậc Đáng Kính, những ứng viên tuyên thánh về đời sống đạo đức. Tuy
nhiên, phép lạ được miễn trừ nơi những ứng viên tuyên thánh tử đạo.
Phép lạ phải là phép lạ thể lý, chứ không phải luân lý, tức
kết quả những việc lạ phải được cảm nhận, được nhìn thấy, được minh chứng và
giảo nghiệm y khoa. Và phải đã xảy ra một năm rồi.
Khi có việc lạ xảy ra, cáo thỉnh viên phải viết đơn xin Giám
Mục thẩm quyền thiết lập ban giám sát. Sau khi xét đoán khôn ngoan có thể là
phép lạ, Giám Mục địa phận để cử hai bác sĩ xét nghiệm, chuyên viên thu thập
tài liệu, chứng từ và yêu cầu toà án địa phận thiết lập việc sát hạch nhân
chứng.
Hồ sơ kết quả thẩm định, có thể là phép lạ, sẽ lập thành ba
bản. Bản gốc giữ ở Toà Giám Mục địa phương. Hai bản còn lại gửi sang bộ tuyên
Thánh Rôma để duyện xét và thẩm định.
Bộ tuyên thánh duyệt xét phép lạ trên ba tiêu chuẩn:
Y khoa: Đây là một chửa trị xác thực và lạ lùng mà y
khoa bình thường không làm được.
Thần học: Nhân chứng đã khẩn cầu với Bậc Đáng Kính và
nhận được phép lạ.
Lòng đạo: Hồng Y và các Giám Mục quyết định là rất hữu
ích cho lòng sốt sắng của Giáo Hội hoàn vũ nếu ứng viên được tôn phong chân
phước.
Tất cả được đệ trình lên Đức Thánh cha và để Ngài có quyết
định sau cùng là có tiến tới tuyên thánh hay không. Nếu có, cũng chính Đức
Thánh Cha sẽ công bố ngày giờ, nơi chốn cử hành việc tuyên phong Chân Phước.
Đức Hồng Y Phanxicô
Xaviê Nguyễn văn Thuận
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận từ trần ngày
16.9.2002. Rất may mắn, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho phép Hội Đồng Công Lý
và Hoà Bình của Ngài khởi án tuyên thánh ngày 16.9.2007. Ngài đã có Holy Card
và Kinh Xin Ơn được Đức Giám Mục Giampietro Crepaldi, tổng thư ký Hội Đồng Công
Lý và Hoà Bình lúc ấy chuẩn nhận và cho phép phổ biến ngày 16.9.2007.
Theo tiến trình tuyên thánh của Giáo hội Công giáo Rôma, Đức
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đang ở bậc Tôi tớ Chúa (một trong bốn
bậc phong thánh: Tôi tớ Chúa, Đấng Đáng kính, Chân phước và Thánh). Ngày 16
tháng 1 năm 2009, Hồng Y Agostino Valini, Giám Quản Toà Rôma ban Án lệnh chính
thức vận động thu thập những chứng cứ, tài liệu, tác phẩm của/về Đức Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận để phục vụ cho án phong chân phước. Ngày 22
tháng 10 năm 2010, án phong chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn
Thuận đã được chính thức khởi sự.
Ngày 15 tháng 11 năm 2010, VietCatholic đưa tin về một chủng
sinh người Việt Nam sinh ra ở Mỹ bị hôn mê 32 ngày và hai lần Bác sĩ đã tuyên
bố là chết. Nhưng ba mẹ chủng sinh nầy và chính Thầy Giuse đã kêu cầu Đức Hồng
Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận. Thầy Giuse đã thấy Đức Hồng Y trong thị kiến
hai lần đến tận giường bệnh thăm viếng Thầy. Hiện tại thầy đã bình phục hẵn.
Văn phòng cáo thỉnh ở Rôma đang đòi những chứng từ minh chứng cho phép lạ chữa
bệnh nầy. Nếu Thầy Giuse có đủ bằng chứng về sự bình phục lạ lùng của Thầy.
Chắc chắn Đức Hồng Y sẽ được tuyên phong chân phước sớm.
Cha Phanxicô Xaviê
Trương Bửu Diệp
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897,
được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 2-2-1897 tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Ðức,
nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, quận Chợ Mới, Tỉnh An-Giang. Ngày 12-3-1946,
ngài bị bắt cùng với trên 70 người giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt
chung với bổn đạo tại lẫm lúa của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa
các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi của giáo dân, ngài đã chết thay thế cho
những người bị bắt chung.
Ở Việt Nam và hải ngoại, cả lương giáo, không ai không biết
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vô số những phép lạ được truyền khẩu và
được ghi chép thành văn bản. Việc lập án tuyên thánh cho Cha Phanxicô Xaviê
Trương Bửu Diệp có nhiều thuận lợi: Ngài bị giết chết trong khi thi hành nhiệm
vụ mục tử, Ngài chết vì đạo. Chúa đã thực hiện nhiều phép lạ qua sự chuyển cầu
của Ngài. Nhiều và rất nhiều nhân chứng “de visu”, là người thọ ơn Cha. Những
người đã từng tiếp xúc với Cha thời sinh tiền vẫn còn sống như Đức Hồng Y Gioan
Baotixita Phạm minh Mẫn.
Thời gian chuẩn bị đã lâu, nhiều người đang nức lòng và sẵn
sàng làm chứng cũng như rộng rãi ủng hộ chương trình tuyên thánh cho Cha
Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Chương trình vinh danh Cha Phanxicô Xaviê
Trương Bửu Diệp, vị mục tử dũng cảm đã dám chết vì đàn chiên, giống như Chúa
Kitô, thầy chí Thánh, vị mục tử nhân hậu, tốt lành và mẫu mực đã đến lúc chín
mùi. Xin trao vào tay Chúa nguyện ước thánh thiện nầy. Vì không điều gì là
không có thể với Thiên Chúa! Xin cầu nguyện và ủng hộ!
LM Phêrô Trần thế Tuyên
(Nguồn: Kiến thức Công Giáo, 2/2011, Liên Tu sĩ Canada)